Kiến nghị Trung Quốc bổ sung thêm các doanh nghiệp được phép xuất khẩu gạo

Gạo XUẤT KHẨU
20:36 - 19/11/2022
Giá gạo Việt Nam xuất khẩu đang ở mức cao.
Giá gạo Việt Nam xuất khẩu đang ở mức cao.
0:00 / 0:00
0:00
Gạo Việt Nam đang có nhiều ưu thế trong bối cảnh an ninh lương thực bị đe dọa, nhưng để tận dụng cơ hội, các chuyên gia cho rằng cần thay đổi phương thức sản xuất và tăng cường mở cửa thị trường, trong đó Trung Quốc là “cánh cửa” còn nhiều dư địa.

Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam - VFA, giá chào bán gạo xuất khẩu 5% tấm đang ở mức 428 USD/tấn, gạo 25% tấm ở mức 408 USD/tấn. So với thời điểm trước khi Ấn Độ ban hành chính sách hạn chế xuất khẩu gạo thì giá xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam tăng trung bình khoảng 30 USD/tấn.

Giới chuyên gia nhận định, trong ngắn hạn, giá gạo Việt Nam sẽ tiếp tục duy trì ở mức cao khi những bất ổn về kinh tế, chính trị toàn cầu làm nhu cầu lương thực tăng cao. Do đó, các doanh nghiệp xuất khẩu cần nắm bắt cơ hội trong việc tiếp cận và mở rộng các thị trường mới.

Để tận dụng cơ hội này, tại “Diễn đàn trực tuyến kết nối cung cầu chuỗi lúa gạo vùng Đồng bằng sông Cửu Long”, ngày 19/11, ông Lê Thanh Hòa, Phó Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường Nông sản (Bộ NN&PTNT) cho biết, ngành lúa gạo cần tập trung nâng cao chất lượng sản xuất và tích cực mở cửa thị trường.

Về thị trường, ông Hòa cho rằng, các doanh nghiệp cần đặc biệt quan tâm tới Trung Quốc.

"Trung Quốc vốn là thị trường lớn và tiềm năng của nông sản Việt cả trong quá khứ lẫn hiện tại. Quốc gia đông nhất thế giới đang có nhiều thay đổi lớn về các yêu cầu nhập khẩu từ kiểm dịch thực vật, quy định đóng gói, nhãn mác, truy xuất nguồn gốc, mã số vùng trồng,… Hiện có 22 doanh nghiệp Việt Nam được cấp phép xuất gạo vào Trung Quốc, nhưng mỗi năm chỉ được xuất khẩu với hạn mức nhất định".

Ông Lê Thanh Hòa, Phó Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường Nông sản

Hải quan Trung Quốc hiện có thể truy xuất rõ ràng sản lượng, hạn mức của từng doanh nghiệp được cấp phép, nên các đơn vị xuất khẩu không có cơ hội để gian dối trong hoạt động này. Mỗi năm, Trung Quốc cần nhập khoảng 5,3 triệu tấn gạo.

“Trước kia, Việt Nam xuất khẩu được hơn 2 triệu tấn, nhưng nay, số lượng sẽ giảm đi. Như vậy, có thể thấy dư địa để Việt Nam xuất khẩu gạo sang Trung Quốc vẫn còn. Việt Nam đang kiến nghị với Trung Quốc bổ sung thêm nhà máy được cấp phép xuất khẩu gạo tẻ, gạo thơm, gạo nếp”, ông Hòa thông tin.

Phó Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường Nông sản cũng khẳng định, bên cạnh Trung Quốc, EU và Anh cũng là hai thị trường quan trọng và có tiềm năng lớn nhờ hạn ngạch xuất khẩu lớn.

“Để tận dụng lợi thế từ các hiệp định thương mại tự do và hạn ngạch xuất khẩu, các doanh nghiệp xuất khẩu cần có sự liên kết chặt chẽ với các đơn vị thu mua, chế biến để đáp ứng các chứng nhận, tiêu chuẩn kỹ thuật của thị trường nhập khẩu”, ông Lê Thanh Hòa cho biết thêm.

Thông tin về tình hình sản xuất, ông Hòa cho biết, mỗi năm, Việt Nam sản xuất từ 43 đến 44 triệu tấn lúa, tương đương 22 đến 23 triệu tấn gạo, đóng vai trò đảm bảo an ninh lương thực toàn cầu. Trong đó, 15% sản lượng gạo Việt Nam đã được xuất khẩu đi các nước hàng năm.

Là một trong số ít các nước vẫn giữ được đà tăng trưởng trong xuất khẩu gạo (năm sau cao hơn năm trước), trong bối cảnh lạm phát và bất ổn về kinh tế, Việt Nam đang hướng tới mốc 7 triệu tấn gạo được xuất khẩu trong năm nay.

Bên cạnh việc nâng cao năng suất, chất lượng, ngành lúa gạo Việt Nam đang đi theo hướng sạch, bền vững. Cụ thể, doanh nghiệp, nông dân tại Việt Nam nói chung và Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng đang tăng sử dụng các chế phẩm sinh học, phế phụ phẩm nông nghiệp như vỏ trấu, cám, phân hữu cơ. Qua đó, hiện thực hóa cam kết cắt giảm khí thải nhà kính, chú trọng phấn đấu đến năm 2030 sẽ giảm 50% phát thải khí metan.

Tối ưu sản xuất bằng phân bón hữu cơ

Cùng quan điểm với ông Hòa về cải thiện sản xuất lúa gạo, ông Nguyễn Anh Tuấn, Tổng giám đốc CTCP Đầu tư Green Stars cho biết, doanh nghiệp của ông chuyên sản xuất các sản phẩm phân bón hữu cơ và các sản phẩm sinh học, xây dựng quy trình cho từng nhóm cây trồng.

"Trong thời gian vừa qua, chúng tôi cùng với cơ quan quản lý ngành Nông nghiệp một số tỉnh, thành triển khai vùng sản xuất lúa an toàn không dư lượng. Qua thời gian thực hiện tại các tỉnh khác nhau và các vụ canh tác khác nhau thì chi phí đầu tư của bà con nông dân bình quân giảm 10 - 15% tùy vào từng vùng canh tác, từng vụ, bình quân lợi nhuận của bà con tăng 8 - 10%", ông Tuấn nêu kết quả.

Tuy nhiên, cũng theo Tổng giám đốc CTCP Đầu tư Green Stars, trong quá trình thực hiện có những khó khăn tương đối giống nhau qua các vùng canh tác như: thói quen canh tác truyền thống khó thay đổi để chuyển từ sử dụng các sản phẩm hóa chất sang các chế phẩm sinh học để bảo vệ sức khoẻ và môi trường.

Sản xuất phân bón hữu cơ từ dừa nước tại huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang.

Sản xuất phân bón hữu cơ từ dừa nước tại huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang.

Sử dụng phân bón hữu cơ vi sinh trong sản xuất lúa gạo cũng được TS. Lê Quý Kha, đại diện Công ty cổ phần Đại Thành nhìn nhận là lựa chọn tối ưu.

“Hiện nay, phân bón hữu cơ đang có nhu cầu cao ở Đồng bằng sông Cửu Long. Sử dụng phân hữu cơ làm giảm tỷ lệ mắc sâu bệnh, giảm lượng thuốc bảo vệ thực vật hóa học nên nông dân Nam bộ rất thích”, ông Kha cho biết.

Ngoài ra, ông Kha cho rằng thị trường Trung Quốc đang ngày càng khó tính, nếu không lồng ghép các giải pháp sinh học đồng bộ, sẽ khó có cửa vào thị trường này. Về phong trào “đồng ruộng không dấu chân”, ông Kha giới thiệu nhiều sản phẩm như máy bay không người lái (Drone), máy sạ cụm...

“Hàng triệu ha lúa ở Đồng bằng Sông Cửu Long đang áp dụng mô hình này. Đó là phong trào không thể đảo ngược. Thực tế, đầu tư máy móc mang lại lợi nhuận cao hơn hàng chục lần so với làm thủ công truyền thống”, TS Lê Quý Kha khẳng định.

Tin liên quan

Đọc tiếp