Thứ trưởng Bộ Công Thương: Doanh nghiệp logistics trong nước bị hạn chế về 'sân chơi'

logistics Việt nAM
22:38 - 28/04/2022
0:00 / 0:00
0:00
Đó là nhận định của Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân tại hội thảo diễn ra sáng 28/4 về "Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics ".

Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân cho biết, Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có các FTA thế hệ mới với những cam kết ở mức độ rất cao của các bên tham gia trong tất cả các lĩnh vực, kể cả truyền thống, phi truyền thống. Phạm vi không chỉ dừng ở các cam kết mở cửa thị trường hàng hóa mà cả trong lĩnh vực dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ...

Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Sinh Nhật Tân tại hội thảo.

Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Sinh Nhật Tân tại hội thảo.

Hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam phát triển mạnh giúp gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu, mở rộng thị trường, đa dạng các loại hàng hóa tham gia xuất nhập khẩu. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa từ năm 2010 đến nay tăng 4,25 lần, từ 157,1 tỷ USD năm 2010 lên 668,5 tỷ USD năm 2021.

Logistics là ngành dịch vụ quan trọng trong cơ cấu kinh tế

Trong năm 2021, mặc dù gặp nhiều khó khăn do dịch bệnh Covid-19 bùng phát lần thứ 4, nhưng xuất nhập khẩu cả nước vẫn đạt con số kỷ lục với tổng kim ngạch đạt 668,55 tỷ USD. Trong đó, xuất khẩu đạt hơn 336,3 tỷ USD, tăng 19% so với năm 2020; nhập khẩu đạt 332,2 tỷ USD, tăng 26,5%; xuất siêu hơn 4 tỷ USD. Với kết quả này, Việt Nam đã lọt Top 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế.

Thứ trưởng cũng khẳng định, kết quả tích cực nêu trên phải kể đến đóng góp của ngành dịch vụ logistics. Với vị trí địa lý đặc biệt nằm trong khu vực phát triển năng động của thế giới, nơi luồng hàng tập trung giao lưu rất mạnh, Việt Nam được đánh giá là có thế mạnh về địa kinh tế rất thuận lợi để đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu và dịch vụ logistics.

Chính phủ Việt Nam cũng đã xác định logistics là một ngành dịch vụ quan trọng trong cơ cấu tổng thể nền kinh tế quốc dân, đóng vai trò hỗ trợ, kết nối và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của cả nước cũng như từng địa phương, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

“Trong những năm qua, được sự quan tâm đặc biệt của Chính phủ cũng như những nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp, ngành logistics Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể”, Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân đánh giá.

Đặc biệt trong giai đoạn dịch bệnh Covid-19, dù gặp nhiều khó khăn nhưng các doanh nghiệp logistics Việt Nam đã thích nghi và cơ bản vẫn duy trì được chuỗi cung ứng. Báo cáo chỉ số logistics thị trường mới nổi 2021 do nhà cung cấp dịch vụ kho vận hàng đầu thế giới Agility vừa công bố cho thấy, năm 2021, Việt Nam đã tăng 3 bậc xếp hạng so với năm 2020, đứng ở vị trí thứ 8 trong Top 10 quốc gia đứng đầu.

“Sân chơi” trong nước, nhưng doanh nghiệp Việt chỉ chiếm 30% thị phần

Ghi nhận những bước tiến vượt bậc của ngành, song Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân cũng chỉ ra rằng, ngành logistics vẫn còn nhiều hạn chế, chưa phát triển xứng tầm với tiềm năng của ngành.

Theo số liệu từ Hiệp hội Doanh nghiệp logistics Việt Nam, hiện 90% các doanh nghiệp logistics đang hoạt động là doanh nghiệp Việt Nam, nhưng lại chỉ chiếm khoảng 30% thị phần, còn lại thuộc về các doanh nghiệp nước ngoài.

Ảnh tác giả

“Số lượng doanh nghiệp nhiều nhưng chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ, quy mô hạn chế cả về vốn và nhân lực cũng như kinh nghiệm hoạt động quốc tế, chưa có sự liên kết giữa các khâu trong chuỗi cung ứng logistics và giữa doanh nghiệp dịch vụ logistics với doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Chính vì vậy, ở cả chiều mua và bán, doanh nghiệp logistics trong nước đều bị hạn chế về “sân chơi”.

Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Sinh Nhật Tân

Chia sẻ về các khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp logistics, ông Trương Tấn Lộc, Giám đốc Marketing, Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn cho rằng, giá nhiên liệu tăng đột biến trong năm 2022 (tăng khoảng 33% so với giá trung bình 2021) ảnh hưởng đến chi phí của doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, thủ tục của các cơ quan hữu quan như việc kiểm soát hàng quá cảnh qua các cửa khẩu còn chưa tạo điều kiện thuận lợi cho các hãng tàu, khách hàng.

Ông Trương Tấn Lộc, Giám đốc Marketing, Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn phát biểu tại Hội thảo.

Ông Trương Tấn Lộc, Giám đốc Marketing, Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn phát biểu tại Hội thảo.

“Dịch Covid-19 vẫn đang diễn biến phức tạp, khiến hoạt động logistics phải có sự chuẩn bị, phương án dự phòng về phương tiện và nhân lực; các doanh nghiệp nhỏ và vừa khó có thể chịu thêm chi phí phát sinh lớn”, ông Lộc nói.

Bà Phạm Thị Lan Hương, Tổng giám đốc, Công ty CP Vinafco nhận định, thị trường logistics Việt Nam nhiều tiềm năng nhưng rất phân tán. Phân tán về quy mô, số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm đa số, hiện 90% doanh nghiệp đăng ký có vốn dưới 10 tỷ đồng; phân tán về loại hình dịch vụ, các doanh nghiệp logistics hoạt động ở nhiều mảng dịch vụ khác nhau.

Bà Phạm Thị Lan Hương, Tổng Giám đốc, Công ty CP Vinafco phát biểu tại Hội thảo.

Bà Phạm Thị Lan Hương, Tổng Giám đốc, Công ty CP Vinafco phát biểu tại Hội thảo.

Cũng theo bà Hương, hiện số lượng doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics tích hợp (3PL,4PL) tại Việt Nam còn hạn chế. Trong mảng 3PL (Cung cấp dịch vụ logistics bên thứ ba hay logistics theo hợp đồng), hầu hết các doanh nghiệp logistics hàng đầu đã có mặt tại Việt Nam và chiếm tỷ trọng lớn về doanh thu so với các doanh nghiệp nội địa.

“Tỷ trọng các doanh nghiệp 3PL, 4PL mới chỉ chiếm 16% tổng số doanh nghiệp trong ngành logistics. Tuy nhiên, miếng bánh này lại nằm chủ yếu trong tay các doanh nghiệp nước ngoài”, bà Hương cho biết.

Bà Lê Thị Ngọc Diệp, Giám đốc, Trưởng bộ phận Thương mại, Công ty SLP Việt Nam, đại diện cho đơn vị cung ứng cơ sở hạ tầng công nghiệp và kho vận tại khu vực Đông Nam Á đánh giá rằng, Việt Nam đang là trung tâm sản xuất mới nổi của khu vực Đông Á.

Đặc biệt, sự tăng trưởng mạnh mẽ trong lĩnh vực sản xuất, tiêu dùng nội địa và thương mại điện tử thúc đẩy nguồn cung nhà kho xây sẵn; tỷ lệ lấp đầy và tỷ lệ hấp thụ vẫn duy trì ở mức cao, kéo theo sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa của thị trường nhà kho xây sẵn trong tương lai.

Bà Lê Thị Ngọc Diệp, Giám đốc, Trưởng Bộ phận Thương mại, Công ty SLP Việt Nam.

Bà Lê Thị Ngọc Diệp, Giám đốc, Trưởng Bộ phận Thương mại, Công ty SLP Việt Nam.

Tuy nhiên, hạn chế chính là Việt Nam có chi phí logistics cao hơn nhiều so với các nước trên thế giới, nhất là so với một số nước trong khu vực, điều này tạo rào cản cho năng lực cạnh tranh trên thị trường của Việt Nam. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, chi phí logistics ở Việt Nam dao động từ 20,9 - 25% GDP.

Cần triển khai các nhóm giải pháp về phát triển hạ tầng

Đánh giá tích cực về cơ hội phát triển của ngành logistics trong năm 2022, ông Trương Tấn Lộc cho rằng, theo dự báo trong tháng 4/2022 của Ngân hàng Thế giới (World Bank), GDP Việt Nam sẽ đạt 5,3% năm 2022 rồi ổn định quanh mức 6,5% năm 2023. Các Hiệp định thương mại tự do dần được thực thi hiệu quả hơn khiến thị trường xuất nhập khẩu Việt Nam sẽ tăng trưởng mạnh mẽ, đặc biệt là đối với ngành điện tử, máy móc thiết bị, đồ gỗ, nhựa, hàng dệt may và thủy sản.

“Đây là cơ hội để phát triển các dịch vụ cảng và logistics phục vụ nhu cầu kết nối hàng hóa với các thị trường lớn trên thế giới”, ông Lộc nhận định.

Để nắm bắt cơ hội phát triển, ông Lộc kiến nghị cần triển khai nhóm các giải pháp về phát triển hạ tầng logistics, như tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy hoạch tổng thể hệ thống cảng cạn, ICD Việt Nam thời kỳ 2021 - 2030.

Bên cạnh đó rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy hoạch tổng thể và chi tiết hệ thống trung tâm logistics trên địa bàn cả nước. Nhanh chóng triển khai các dự án giao thông đường bộ, cụ thể đường vành đai 3, vành đai 4, đường cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu, nâng cấp đường cao tốc TP HCM - Long Thành.

Đối với nhóm các giải pháp hoàn thiện các quy định, cơ chế, chính sách, ông Lộc cho rằng, Chính phủ cần xây dựng cơ chế phát triển logistics xanh theo định hướng cắt giảm tỷ trọng sử dụng nhiên liệu hóa thạch trên 1km vận tải; Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công thương phối hợp với các Bộ ngành xây dựng cơ chế ưu đãi cho các doanh nghiệp về việc giảm các loại thuế; Xem xét điều chỉnh Thông tư số 01/2019/TT-BCT về quy định cửa nhập khẩu phế liệu cho mặt hàng giấy.

Các xu thế của thị trường logistics mang đến nhiều cơ hội và cũng đặt ra nhiều thách thức cho các doanh nghiệp logistics Việt Nam trên con đường phát triển để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Đó là thách thức về tự do cạnh tranh, chất lượng dịch vụ, ứng dụng công nghệ thông tin và thương mại điện tử, nguồn nhân lực.

Để bắt kịp xu thế thị trường, đạt mục tiêu phát triển ngành logistics, bà Phạm Thị Lan Hương cho rằng, Việt Nam cần phát triển thêm nhiều doanh nghiệp 3PL, 4PL làm mũi nhọn để kéo thị trường logistics lên.

Bà Lan Hương kiến nghị, Việt Nam cần đầu tư, phát triển quy hoạch, có trung tâm đầu nối vận chuyển; có cơ chế ưu đãi cho các đơn vị hoặc doanh nghiệp kỳ vọng sẽ có chương trình về giải pháp công nghệ cho ngành logistics; tăng cường sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong ngành một cách lành mạnh.

Bà Lê Thị Ngọc Diệp thì đưa ra đề xuất, Việt Nam cần thúc đẩy ứng dụng công nghệ vào ngành logistics để nâng cao hiệu quả, tối ưu năng suất hoạt động và tiết kiệm chi phí vận hành cho doanh nghiệp; kết nối chặt chẽ giữa các đơn vị phát triển và vận hành logistics để nâng cao hiệu quả hoạt động như đơn vị sản xuất, kho vận, 3PLs, vận chuyển; khuyến khích đầu tư vào thị trường logistics Việt Nam.

Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân thừa nhận rằng, những vấn đề đặt ra mặc dù không mới, nhưng là yếu tố then chốt, là vấn đề tiên quyết cần giải quyết nếu muốn ngành logistics có thể phát triển bứt phá, đạt được vị trí xứng tầm với tiềm năng phát triển của ngành, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế đang thích ứng, vượt qua khó khăn, phục hồi lại sau đại dịch Covid-19.

Tin liên quan

Đọc tiếp