Sự gia tăng mạnh mẽ của kim ngạch thương mại, đặc biệt với các quốc gia láng giềng trong khối ASEAN, đang tạo đà vững chắc cho ngành logistics Việt Nam phát triển; đưa Việt Nam trở thành trung tâm trung chuyển, "huyết mạch" kết nối giao thương trong khu vực.
![]() |
Việt Nam, nằm ở trung tâm Đông Nam Á, là cửa ngõ giao thương kết nối các nền kinh tế năng động trong khu vực và trên thế giới. Với đường bờ biển dài và nhiều cảng nước sâu như Cái Mép - Thị Vải, Lạch Huyện, Việt Nam đóng vừa là điểm đến, vừa là điểm đi của hàng hóa khu vực, giảm thời gian và chi phí vận chuyển quốc tế so với việc trung chuyển qua các cảng khác.
Việt Nam còn là điểm cuối của nhiều hành lang kinh tế quan trọng như Hành lang kinh tế Đông - Tây (EWEC) kết nối Myanmar, Thái Lan, Lào; hay mắt xích quan trọng trong các dự án kết nối đường bộ, đường sắt sang Campuchia và Lào, tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại tiểu vùng Mekong và nội khối ASEAN.
![]() |
Cảng Cái Mép Thị Vải - Cảng container lớn nhất Việt Nam. Nguồn: VinaLogs.
Cùng với việc phát triển đồng bộ của các tuyến đường bộ, đường hàng không và hệ thống cảng biển ngày càng hoàn thiện, đã tạo nên nền tảng vững chắc cho sự phát triển của ngành logistics Việt Nam.
Mặt khác, ngành logistics cũng hưởng lợi từ quá trình hội nhập kinh tế sâu rộng, tham gia nhiều FTA giúp mở rộng thị trường, giảm rào cản thương mại và tăng cường kết nối chuỗi cung ứng; thị trường nội địa tiềm năng với dân số trẻ và tầng lớp trung lưu gia tăng đang thúc đẩy thương mại điện tử và nhu cầu logistics hiện đại.
Bên cạnh đó, các chính sách hỗ trợ từ Chính phủ, các cơ quan quản lý Nhà nước cũng góp phần thúc đẩy phát triển ngành logistics.
Theo báo cáo Chỉ số Hiệu quả Logistics (LPI) của Ngân hàng Thế giới (World Bank), năm 2023, Việt Nam xếp thứ 43 trên tổng số 139 quốc gia và vùng lãnh thổ, đạt 3,3 điểm. Trong khu vực ASEAN, Việt Nam duy trì vị trí trong Top 5, sau Singapore (đứng đầu thế giới với 4,3 điểm), Malaysia (xếp thứ 36 với 3,6 điểm), Thái Lan (xếp thứ 37 với 3,5 điểm) và ngang bằng với Philippines (cũng xếp thứ 43 với 3,3 điểm).
Trước đó, theo số liệu LPI công bố năm 2018, Việt Nam xếp thứ 39 trên 160 quốc gia với 3,27 điểm, cho thấy sự duy trì ổn định về điểm số, nhưng thứ hạng có sự biến động nhẹ do bối cảnh cạnh tranh logistics toàn cầu diễn biến phức tạp.
![]() |
Tại Diễn đàn Logistics Việt Nam năm 2024 tổ chức hồi tháng 12/2024, Bộ trưởng Công Thương Nguyễn Hồng Diên nhận định, Việt Nam là quốc gia nằm trong khu vực phát triển năng động của thế giới, nơi luồng hàng hóa tập trung giao lưu mạnh và nền kinh tế có độ mở lớn (trên 200%), cùng 17 Hiệp định thương mại tự do đã được ký kết, thực thi với gần 70 quốc gia, vùng lãnh thổ; kim ngạch xuất nhập khẩu và thương mại điện tử luôn tăng trưởng ở mức hai con số. Do đó, Việt Nam được đánh giá là một trong những thị trường có nhiều tiềm năng, điều kiện để phát triển dịch vụ logistics.
Trong những năm gần đây, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á ghi nhận sự tăng trưởng mạnh mẽ. Theo số liệu từ Cục Thống kê Việt Nam, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và ASEAN trong năm 2024 đạt 83,9 tỷ USD, đạt mốc cao nhất từ trước đến nay. Con số này cho thấy sự phục hồi ấn tượng sau khi kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam – ASEAN giảm 8,7% vào năm 2023, xuống còn 73,7 tỷ USD (so với mức 80,8 tỷ USD năm 2022).
Bước sang năm 2025, tính riêng nửa đầu năm, xuất nhập khẩu Việt Nam và khu vực đã đạt 45,36 tỷ USD. Năm 2024, mức tăng trưởng kim ngạch hai bên ở mức 13% so với năm trước, nếu giữ đà tăng trưởng này, năm 2025 sẽ là năm tiếp theo đạt kỷ lục mới trong giao thương Việt Nam - ASEAN với con số ước tính sẽ lên tới 90 tỷ USD.
Thái Lan - một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam trong khối ASEAN, với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu song phương trong năm 2024 đạt 20,18 tỷ USD, tăng 6,4% so với năm 2023.
Đứng thứ hai trong các đối tác thương mại lớn của Việt Nam trong khu vực là Singapore, với kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều giữa trong năm 2024 đạt hơn 31,67 tỷ SGD (tương đương khoảng 23,4 tỷ USD), tăng 9,49% so với năm 2023.
Malaysia - một đối tác thương mại truyền thống và quan trọng của Việt Nam, với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu song phương năm 2024 đạt gần 14,19 tỷ USD, tăng 12% so với 12,67 tỷ USD của năm 2023.
Với dân số lớn nhất Đông Nam Á, Indonesia là một thị trường đầy tiềm năng đối với Việt Nam nói riêng và khối ASEAN nói chung. Tổng kim ngạch thương mại Việt Nam – Indonesia năm 2024 đạt khoảng 16,7 tỷ USD, tăng trưởng nhanh từ mức 14 tỷ USD của năm 2023.
Là thị trường nhập khẩu gạo lớn của Việt Nam, quan hệ thương mại giữa Philippines và Việt Nam ngày càng được củng cố. Theo số liệu từ Bộ Công Thương Việt Nam, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Philippines năm 2024 chính thức vượt mức 8 tỷ USD, đạt 8,66 tỷ USD, tăng 18% so với 7,34 tỷ USD của năm 2023.
Sự tăng trưởng mạnh mẽ và bền vững của kim ngạch xuất nhập khẩu, đặc biệt với các đối tác lớn trong khu vực ASEAN như Thái Lan, Singapore, Malaysia, Indonesia, Philippines, đang tạo ra động lực cho ngành logistics Việt Nam phát triển. Khi kim ngạch thương mại tăng, nhu cầu vận chuyển, lưu kho, phân phối, kiểm soát chất lượng, thông quan... cũng tăng theo, kéo theo sự phát triển về quy mô, chất lượng và công nghệ của toàn bộ hệ thống logistics.
Đồng thời, những yêu cầu khắt khe từ thị trường xuất khẩu cũng buộc doanh nghiệp logistics phải nâng cao năng lực cạnh tranh, từ đó tạo ra một chuỗi giá trị dịch vụ logistics hiện đại hơn.
![]() |
Tuy sở hữu nhiều điều kiện thuận lợi và cơ hội để phát triển, ngành logistics Việt Nam cũng đối mặt với nhiều thách thức.
Đầu tiên phải kể đến chi phí logistics ở Việt Nam còn cao. Theo báo cáo logistics Việt Nam năm 2024 của Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam (VLA), chi phí logistics tại Việt Nam chiếm khoảng 16,8% GDP. Con số này vẫn cao so với mức trung bình 10 - 11% của các nước phát triển và 10,7% bình quân thế giới.
Báo cáo của VLA cũng chỉ ra, mặc dù đã có nhiều cải thiện, nhưng kết nối hạ tầng logistics tại Việt Nam vẫn chưa đồng bộ, với sự liên kết giữa các loại hình vận tải (đường bộ, đường sắt, đường thủy, hàng không) và giữa các vùng kinh tế còn hạn chế.
Bên cạnh đó, chất lượng dịch vụ chưa đồng đều, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp logistics Việt Nam còn hạn chế so với các tập đoàn logistics quốc tế.
Đặc biệt, sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao là một “điểm nghẽn” lớn của ngành.
Cuối cùng, mức độ ứng dụng công nghệ mới và tự động hóa trong quản lý chuỗi cung ứng còn chưa đạt mức tối ưu. Theo khảo sát của VLA trong năm 2024, chỉ có khoảng 30% doanh nghiệp logistics Việt Nam đã ứng dụng công nghệ một cách bài bản trong hoạt động của mình
![]() |
Tại Diễn đàn logistics Việt Nam 2024 tổ chức hồi tháng 11/2024, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh vai trò chiến lược của logistics trong kết nối kinh tế khu vực và toàn cầu: “Việt Nam cần tận dụng vị trí địa lý, phát triển hạ tầng và logistics xanh, để trở thành trung tâm logistics khu vực châu Á – Thái Bình Dương”.
![]() |
Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại Diễn đàn Logistics Việt Nam 2024. Nguồn: TTXVN.
Trên phương diện dài hạn, Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến 2035 đã đặt mục tiêu rõ ràng: xây dựng Việt Nam trở thành trung tâm logistics khu vực với năng lực cạnh tranh cao, dịch vụ chất lượng và gắn kết chặt chẽ chuỗi cung ứng toàn cầu.
Để hiện thực hóa khát vọng đó, Việt Nam cần giải quyết đồng bộ các "điểm nghẽn" tồn tại. Thứ nhất là về chi phí, theo chia sẻ của ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) tại “Diễn đàn Logistics xanh - Sức bật trong biến động và kết nối cùng FIATA World Congress 2025” tổ chức ngày 11/7 vừa qua, Việt Nam cần thúc đẩy đầu tư vào kết cấu hạ tầng logistics có tính liên vùng cao, đồng thời phát triển các trung tâm logistics tích hợp gắn với khu công nghiệp, cảng biển và ICD nhằm tối ưu hóa vận chuyển và giảm chi phí logistics.
![]() |
Ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) phát biểu tại “Diễn đàn Logistics xanh - Sức bật trong biến động và kết nối cùng FIATA World Congress 2025” tổ chức ngày 11/7. Ảnh: Thu Thảo/Mekong ASEAN.
Về vấn đề hạ tầng liên kết, ông Hải cho rằng cần tăng cường liên kết giữa các phương thức vận tải khác nhau như đường bộ, đường sắt, đường thủy và hàng không, để tạo thành mạng lưới logistics xuyên suốt. Việc đẩy mạnh quy hoạch tổng thể logistics vùng cũng là hướng đi quan trọng để giảm tải cho các đầu mối vận tải lớn và tối ưu hóa năng lực khai thác hạ tầng hiện có.
Về chất lượng dịch vụ và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, theo ông Hải, Việt Nam cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ tự động hóa và chuyển đổi số trong toàn chuỗi cung ứng. Việc phát triển logistics xanh và logistics lạnh sẽ mở ra cơ hội mới cho các doanh nghiệp tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Về nguồn nhân lực - yếu tố cốt lõi trong phát triển logistics, ông Trần Thanh Hải nhấn mạnh việc xây dựng các chương trình đào tạo chuyên sâu, gắn với thực tiễn và tiêu chuẩn quốc tế là chìa khóa để nâng cao chất lượng lao động ngành logistics. Đồng thời, cần mở rộng hợp tác công – tư trong đào tạo và nghiên cứu, qua đó tạo nguồn lực bền vững cho sự phát triển dài hạn của ngành.
Ngoài ra, một điểm nhấn quan trọng trong ngành logistics Việt Nam năm 2025 là việc đăng cai tổ chức Đại hội thường niên của Liên đoàn các Hiệp hội Giao nhận Vận tải Quốc tế FIATA (FIATA World Congress 2025) tại Hà Nội vào tháng 10 tới đây.
![]() |
Đại hội thường niên của Liên đoàn các Hiệp hội Giao nhận Vận tải Quốc tế FIATA (FIATA World Congress 2025) sẽ diễn ra tại Hà Nội vào tháng 10 tới đây. Ảnh: Thu Thảo/Mekong ASEAN.
FIATA World Congress 2025 là cơ hội vàng để Việt Nam quảng bá năng lực logistics quốc gia, tăng cường kết nối doanh nghiệp, thu hút đầu tư nước ngoài và thúc đẩy hợp tác chuyển giao công nghệ.
Với chủ đề "Logistics xanh và thích ứng nhanh", đây là không gian để các doanh nghiệp cũng như các nhà quản lý thảo luận về mô hình logistics thông minh, thương mại điện tử xuyên biên giới và phát triển hạ tầng logistics khu vực.
Đặc biệt, sự kiện này diễn ra vào năm Việt Nam kỷ niệm 30 năm gia nhập ASEAN (1995–2025), làm nổi bật vai trò của Việt Nam trong việc thúc đẩy liên kết nội khối, xây dựng chuỗi cung ứng khu vực ổn định và hiệu quả hơn. Thông qua đó, Việt Nam không chỉ khẳng định vị thế ngày càng tăng trên bản đồ logistics quốc tế, mà còn góp phần tích cực vào tiến trình xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN vững mạnh.