Chuỗi cung ứng toàn cầu được kéo dài ra khi áp dụng container vào vận chuyển. Ảnh: The Australian

Đông Nam Á đứng trước cơ hội thành trung tâm cung ứng toàn cầu

CHUỖI CUNG ỨNG THẾ GIỚI
14:39 - 28/03/2022
Các lệnh trừng phạt kinh tế nhằm vào Nga, xung đột quân sự tại Ukraine và Covid-19 đang dần thay đổi trật tự thế giới và biến đổi các chuỗi cung ứng. Trong bối cảnh này, Đông Nam Á đang có tiềm năng trở thành nhà cung cấp cho nhiều khu vực trên thế giới. 

Theo The Wall Street Journal, so với trước đây, chuỗi cung ứng toàn cầu thời hiện đại được thiết kế để tiết kiệm hàng loạt chi phí. Kể từ khi áp dụng container vào vận chuyển những năm 1960, các chuỗi cung ứng cho hầu hết hàng hóa ngày càng được kéo dài ra. Việc vận chuyển xuyên đại dương và xuyên lục địa trở nên rẻ và đáng tin cậy hơn, đồng nghĩa với các hoạt động sản xuất có thể di chuyển đến bất cứ nơi nào có mức lương thấp nhất.

Việc các bộ phận trên một mặt hàng có nguồn gốc từ nhiều nơi hơn, giúp giảm giá thành tối đa, nhưng nhược điểm là phụ thuộc nhiều hơn vào ba đặc tính của thương mại toàn cầu. Thứ nhất, nguyên liệu thô phải luôn rẻ và có sẵn rộng rãi. Thứ hai, việc vận chuyển sẽ luôn tốn một phần nhỏ giá trị của hàng hóa. Thứ ba, các bên phải tin cậy vào quá trình vận chuyển.

Một con tàu container cập cảng ở Thanh Đảo, thuộc tỉnh Sơn Đông, miền đông Trung Quốc. Ảnh: AFP

Một con tàu container cập cảng ở Thanh Đảo, thuộc tỉnh Sơn Đông, miền đông Trung Quốc. Ảnh: AFP

Những điều này vẫn được coi là hiển nhiên, cho đến năm 2018, cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung bắt đầu diễn ra khiến nhiều nhà sản xuất thấy rằng những giả định này có thể không còn đúng.

Sau đó, đại dịch Covid-19 bùng phát trên toàn thế giới. Cùng với đó, các lệnh trừng phạt liên tiếp giáng xuống Nga, cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung vẫn diễn ra âm ỉ, cuộc chiến tại Ukraine, các thảm họa thiên tai và những khó khăn trong khâu sản xuất và vận chuyển khiến các vấn đề với chuỗi cung ứng toàn cầu hóa trở nên trầm trọng hơn.

Quá trình biến đổi chuỗi cung ứng thành mạng cung ứng

Đối với nhiều công ty, sự trì hoãn chuỗi cung ứng đang khiến họ phải nỗ lực vượt qua bằng cách bổ sung thêm nhiều nhà máy, nhà cung cấp và nguồn nguyên liệu. Khi các công ty xây dựng nhiều nhà máy hơn, ở nhiều địa điểm hơn và mua các bộ phận và vật liệu từ nhiều nhà cung cấp hơn, chuỗi cung ứng của thế giới ngày càng giống như “mạng lưới cung ứng”. Tuy nhiên, đây là cuộc cải tổ tốn kém tài chính và thời gian.

Ông Nathan Resnick, Chủ tịch và đồng sáng lập của Sourcify, công ty tìm kiếm và quản lý các nhà máy ở châu Á, cho biết trong lĩnh vực hậu cần, sự chuyển dịch từ chuỗi cung ứng sang “mạng lưới cung ứng” được gọi là "đa nguồn cung ứng". Điều này đòi hỏi thiết lập và đồng bộ hóa chất lượng giữa các nhà máy.

Giáo sư Willy Shih tại Đại học Harvard và là thành viên của Ủy ban tư vấn cho Bộ Thương mại Mỹ về cách củng cố chuỗi cung ứng trong nước. Trong một bài luận gần đây, ông mô tả đại dịch trở thành lời cảnh tỉnh cho các nhà quản lý. Ông cũng chỉ ra xu hướng các công ty và quốc gia trên thế giới tìm cách tái định vị chuỗi cung ứng trong các khối thương mại khu vực đồng minh về chính trị.

Cùng với việc các công ty nhận ra nguy cơ bị gián đoạn nguồn cung, các chính phủ cũng đang tập trung nhiều hơn vào việc bảo vệ quyền tiếp cận các hàng hóa quan trọng vì lý do an ninh quốc gia. Các chính sách này có nhiều tên gọi. Ở Trung Quốc, động thái hướng tới tự lực cánh sinh này được gọi là "tuần hoàn kép", được công bố vào tháng 5/2020. Ở Liên minh châu Âu, phần triết lý liên quan đến công nghệ này được đặt tên là "Chủ quyền Công nghệ".

Ở Mỹ, Bộ Thương mại nước này đã thông qua luật pháp để xây dựng quy tắc nhằm thúc đẩy chuỗi cung ứng nội địa. Những nỗ lực này bao gồm "Chips for America" trị giá 52 tỷ USD, đã được thông qua nhưng chưa được tài trợ, nhằm mục đích đưa ngành sản xuất vi mạch của Mỹ đang chiếm thị phần 12% phục hồi về mức khoảng 40% như hồi 1990.

TCMS là nhà sản xuất các loại chip thế hệ mới của Apple, với nhiều cơ sở sản xuất trên toàn thế giới. Ảnh: AFP

TCMS là nhà sản xuất các loại chip thế hệ mới của Apple, với nhiều cơ sở sản xuất trên toàn thế giới. Ảnh: AFP

Với nhu cầu về vi mạch đang nhanh đến mức không thể theo kịp, các nhà sản xuất thậm chí còn không cần chờ đợi đạo luật chip này. Họ đã công bố một loạt các nhà máy mới, nằm rải rác trên khắp thế giới. TSMC, nhà sản xuất gần như tất cả các chip thế hệ mới nhất trong các sản phẩm của Apple, đang chi 100 tỷ USD trong ba năm tới để tăng công suất của mình, bao gồm các nhà máy mới ở Arizona (Mỹ) và Nhật Bản.

Intel đã cam kết chi 95 tỷ USD cho năng lực sản xuất mới chỉ riêng ở châu Âu và 20 tỷ USD cho một nhà máy mới ở Ohio (Mỹ) và có thể phát triển thành khoản mức đầu tư 100 tỷ USD. Samsung có kế hoạch xây dựng một cơ sở mới trị giá 17 tỷ USD ở Texas (Mỹ). Ngay cả các nhà sản xuất chip sử dụng công nghệ cũ hơn, như Texas Instruments và On Semiconductor cũng đang hướng đến xây dựng các nhà máy mới và mở rộng.

Theo đánh giá của ông Klon Kitchen, Chuyên gia cấp cao chuyên về công nghệ và an ninh quốc gia của American Enterprise Institute, tình hình toàn cầu hiện nay, với các liên minh địa chính trị đang chia cắt bởi chiến tranh thương mại và xung đột quân sự, đang gợi nhớ đến Chiến tranh Lạnh và thậm chí cả Thế chiến II.

Ngay cả khi căng thẳng leo thang giữa Mỹ cùng các đồng minh với Nga, Trung Quốc hoặc các quốc gia khác, Mỹ cho biết họ không thể để mất quyền tiếp cận năng lực sản xuất vi mạch tiên tiến và các bộ phận sản xuất khác để xây dựng mọi thứ, từ hệ thống vũ khí đến điện thoại thông minh và mạng 5G.

Tiềm năng cung ứng toàn cầu của Đông Nam Á

Chip máy tính không phải là loại công nghệ duy nhất mà chuỗi cung ứng đang được chuyển đổi thành mạng cung ứng đa nguồn. Sản xuất pin, đặc biệt là cho xe điện, hiện do Trung Quốc thống trị. Nhưng hàng chục siêu nhà máy (gigafactories) mới cho pin EV đang mọc lên ở khắp Mỹ và thế giới.

iPhone, biểu tượng của chuỗi cung ứng dài nhất và phức tạp nhất thế giới, tiếp tục ổn định sản xuất một phần nhờ sự phối hợp của Apple và Foxconn – nhà sản xuất hợp đồng chính của nó. Giáo sư Shih cho biết, ngay cả trước đại dịch, Foxconn đã tận dụng các khoản trợ cấp hào phóng để phân phối lại mạng lưới sản xuất iPhone. Họ chia nhỏ sản xuất thiết bị này và nhiều sản phẩm khác giữa Thâm Quyến và miền Tây Trung Quốc. Foxconn cũng đã mở rộng sản xuất iPhone sang Chennai (Ấn Độ) và AirPods đến Việt Nam.

Foxconn và nhiều tập đoàn công nghệ lớn trên thế giới đã nhắm đến Đông Nam Á như một khu vực tiềm năng cung ứng sản xuất toàn cầu. Ảnh: Bloomberg

Foxconn và nhiều tập đoàn công nghệ lớn trên thế giới đã nhắm đến Đông Nam Á như một khu vực tiềm năng cung ứng sản xuất toàn cầu. Ảnh: Bloomberg

Đặc biệt, Đông Nam Á đã trở thành một điểm nóng của khu vực "thiếu nguồn cung ứng" về sản xuất công nghệ. Các quốc gia như Việt Nam và Thái Lan, mặc dù gần với nguồn cung được sản xuất tại Trung Quốc, nhưng chi phí nhân công ở hai nước này thấp hơn.

Ngoài ra, với việc hầu hết quốc gia ở Đông Nam Á đang cố gắng duy trì tính trung lập về địa chính trị, khu vực này có tiềm năng trở thành nhà cung cấp cho hầu hết mọi quốc gia trên thế giới. Chẳng hạn, Samsung Electronics sản xuất phần lớn điện thoại thông minh cũng như các thiết bị gia dụng thông minh tại Việt Nam.

Nhà phân tích Lauren Dudley của Rhodium Group, công ty nghiên cứu kinh tế có trụ sở tại New York (Mỹ), cho biết ngay cả khi Mỹ muốn cố gắng tái tạo toàn bộ chuỗi cung ứng điện tử trong nước, từ nguyên liệu thô đến thành phẩm, “thì sẽ cực kỳ khó khăn, nếu không muốn nói là không thể”.

Mỹ có thể chế tạo gần như tất cả các thành phần của các thiết bị hiện đại, nhưng phần lớn kiến ​​thức đó đã bị mất đi, do các nhà máy được chuyển ra nước ngoài, các kỹ sư và kỹ thuật viên nghỉ hưu và không ai được đào tạo để sử dụng chúng, tiến sĩ Shih nói.

Một số nhà nghiên cứu về chuỗi cung ứng và mạng cung ứng nói rằng sự dịch chuyển hiện tại có nguy cơ đi quá xa. Bà Kilcrease nhận xét: “Nếu Mỹ cố gắng đạt được mục tiêu "Chủ quyền Công nghệ" như EU sẽ là một sai lầm”. Mặc dù chip và thiết bị điện tử quan trọng đối với các hệ thống quốc phòng nhưng đó vẫn chỉ là một phần rất nhỏ trong tổng số chip được sản xuất hàng năm.

Dù các công ty và chính phủ có đầu tư gì đi chăng nữa, thì không có gì trong một hệ thống sản xuất và phân phối hàng hóa trải dài khắp thế giới thay đổi nhanh chóng. Để có thể sắp xếp lại hàng thập kỷ toàn cầu hóa, di chuyển các nhà máy và chuẩn bị chuyên môn cần thiết để vận hành chúng, là nhiệm vụ hỏi rất nhiều tiền và thời gian.

"Để có được sự tách biệt này như nhiều người đề cập, chúng ta đang nói đến dự án kéo dài hàng thập kỷ. Các nước thực sự phải có rất nhiều cam kết", giáo sư Shih nói.

Đọc tiếp