Giải mã những vướng mắc khi doanh nghiệp tiếp cận gói hỗ trợ 350 nghìn tỷ đồng

KINH TẾ Việt nAM
11:00 - 18/09/2022
PGS.TS Nguyễn Trúc Lê - Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.
PGS.TS Nguyễn Trúc Lê - Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.
0:00 / 0:00
0:00
Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội đã thực sự kích thích được tăng trưởng kinh tế, tạo niềm tin cho doanh nghiệp và người dân. Tuy nhiên, việc triển khai Chương trình hỗ trợ chưa có tiền lệ này cũng đang gặp không ít vướng mắc. 

Tại Phiên thảo luận với chủ đề Thúc đẩy việc thực hiện các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động, tạo động lực phục hồi sản xuất, kinh doanh và phát triển bền vững, trong khuôn khổ Diễn đàn Kinh tế - Xã hội Việt Nam 2022 ngày 18/9, các đại biểu trình bày các tham luận đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết số 43/2022/QH15 (Nghị quyết 43) của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi KT-XH

PGS.TS Nguyễn Trúc Lê - Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội nhìn nhận, Nghị quyết 43 đã thực sự kích thích được tăng trưởng kinh tế, tạo niềm tin cho doanh nghiệp và người dân. Tuy nhiên, việc triển khai Chương trình hỗ trợ chưa có tiền lệ cũng gặp không ít vướng mắc. Cụ thể:

Chính sách miễn giảm, gia hạn thuế, theo đánh giá của đại diện trường Đại học Kinh tế, nhóm chính sách này đã hỗ trợ tốt doanh nghiệp nhờ việc tiết kiệm chi phí thuế, nhưng lại làm phát sinh chi phí tuân thủ thuế.

Ngoài ra, còn nhiều vướng mắc như với một khách hàng, doanh nghiệp phải lập 2 hóa đơn, một hóa đơn ghi thuế suất 8%, một hóa đơn ghi thuế suất 5-10%. Để giải quyết khó khăn trên, sau 8 tháng, Nghị định 41 mới được ban hành, độ trễ quá dài đã gây ảnh hưởng đôi phần đến doanh nghiệp.

Riêng với chính sách giảm thuế bảo vệ môi trường, thực chất giảm thuế bảo vệ môi trường nhằm mục đích giảm giá xăng dầu. Tuy nhiên, theo báo cáo, sau khi giảm 50% thuế bảo vệ môi trường, giá xăng dầu cả nước vẫn neo cao, thậm chí lập đỉnh 33.000 đồng.

Do đó, nhóm nghiên cứu đề xuất cần tiếp tục nghiên cứu phương án giảm các loại thuế liên quan đến xăng dầu nhằm ổn định mặt bằng giá cả.

Về chính sách gia hạn nộp thuế thuê đất và giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước, kết quả phỏng vấn doanh nghiệp của nhóm nghiên cứu chỉ ra rằng, dự kiến số tiền thuê đất, thuê mặt nước được gia hạn khoảng 3.500-3.700 tỷ đồng chắc chắn sẽ được bổ sung vào dòng vốn ngắn hạn và làm giảm mất cân đối dòng tiền doanh nghiệp.

Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu đề xuất cần ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể hơn đối với chính sách giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước vì tính đến thời điểm này đã 8 tháng trôi qua nhưng chưa có văn bản hướng dẫn kể từ ngày Nghị quyết được ban hành.

Doanh nghiệp khó đáp ứng các điều kiện cho vay

Ông Nguyễn Trúc Lê lấy ví dụ về một chính sách vốn được kỳ vọng là trọng tâm trong Chương trình phục hồi lần này, bên cạnh gói đầu tư cơ sở hạ tầng 113 nghìn tỷ, đó là gói hỗ trợ lãi suất 2%. Nhưng, số liệu đến tháng 8 cho thấy, doanh số cho vay được hỗ trợ lãi suất đạt gần 4.100 tỷ đồng, với gần 550 khách hàng; số tiền lãi đã hỗ trợ cho khách hàng đạt 1,02 tỷ đồng, dư nợ được hỗ trợ lãi suất đạt 3.966 tỷ đồng. Như vậy, mỗi khách hàng được hỗ trợ trung bình lãi suất là 26 triệu.

Tuy nhiên, theo báo cáo khảo sát của nhóm nghiên cứu trường Đại học kinh tế, các doanh nghiệp cũng không mặn mà đối với gói lãi suất này, vì việc tiếp cận nguồn vốn rẻ với chính sách hỗ trợ lãi suất 2% khá khó khăn do doanh nghiệp khó đáp ứng được các điều kiện cho vay.

Có doanh nghiệp không được giải ngân vì không có tài sản thế chấp, trong khi ngân hàng kiên quyết không hạ chuẩn cho vay. Có hộ kinh doanh dịch vụ thu nhập thấp, song không thể tiếp cận chính sách hỗ trợ lãi suất 2%, vì lý do tỉnh đó chưa quy định mức thu nhập bao nhiêu là thấp. Có hợp tác xã đủ điều kiện được hưởng chính sách hỗ trợ lãi suất 2%, nhưng không có hóa đơn đỏ theo yêu cầu của Bộ Tài chính, mà chỉ có hóa đơn bán lẻ, hợp đồng mua bán.

Bên cạnh đó, đối với các tổ chức tín dụng, rào cản lại ở room tín dụng mặc dù ngân hàng đã được nới room nhưng chưa đáp ứng kỳ vọng của ngân hàng. Có lẽ vấn đề này được hiểu rằng vì mục tiêu kiểm soát lạm phát dưới 4% nên Ngân hàng Nhà nước rất cần cân nhắc điều chỉnh room tín dụng, TS. Nguyễn Trúc Lê nhìn nhận.

Hay liên quan đến chính sách hỗ trợ thuế xuất nhập khẩu, khảo sát của nhóm nghiên cứu cho thấy các doanh nghiệp nhìn nhận gói này nhiều ưu điểm vì không dàn trải và tạo thuận lợi cho một số ngành, trong đó đặc biệt ngành sản xuất ô tô, sản xuất thép và chăn nuôi. Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng mong muốn cần phải sớm đánh giá hiệu quả của chính sách để tiếp tục điều chỉnh, có thể bổ sung, lựa chọn thêm các ngành nghề có ảnh hưởng, tính lan tỏa cao.

Nhận diện 5 vướng mắc trong triển khai Chương trình phục hồi

Nhìn chung, nhóm nghiên cứu chỉ ra có một số khó khăn chính trong triển khai gói phục hồi và phát triển kinh tế xã hội của Chính phủ.

Thứ nhất, thông tin về chương trình không được phổ biến, cập nhật đến với nhiều loại hình doanh nghiệp, ví dụ những doanh nghiệp lớn dễ tiếp cận chính sách miễn, giảm thuế qua đường văn bản chính thức, trong khi đó các doanh nghiệp nhỏ chỉ được tiếp cận chính sách qua các đường phi chính thức.

Thứ hai, chính sách tốt nhưng điều kiện quá bất cập, đối tượng thụ hưởng khó đáp ứng được yêu cầu về thủ tục hành chính, ví dụ như hộ kinh doanh không đáp ứng được điều kiện về giấy phép và doanh nghiệp cũng thì e ngại tham gia do phải đối mặt với cả thanh tra, kiểm toán…

Thứ ba, thời gian hỗ trợ ngắn, chẳng hạn như gia hạn thuế giá trị gia tăng thời gian ngắn thì chưa đủ giải quyết được bài toán khó khăn của doanh nghiệp.

Thứ tư, đối với đối tượng hỗ trợ đang chỉ tập trung vào một số ngành nghề, tuy nhiên, còn rất nhiều các ngành đang thực sự đứng trước thách thức. Chẳng hạn phản hồi từ các doanh nghiệp ngành dịch vụ du lịch khẳng định họ bị ảnh hưởng rất nhiều nhưng nhận được gói hỗ trợ ít so với các ngành ưu tiên khác

Thứ năm, văn bản hướng dẫn là chưa kịp thời; chẳng hạn văn bản hướng dẫn giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước vẫn chưa được ban hành.

Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cho rằng các chính sách đa số được thiết kế và thực thi theo hướng bình quân hóa giữa các địa phương, ngành nghề, quy mô, mà ít tính đến mức độ ảnh hưởng và khả năng chống chịu giữa các ngành nghề cũng như các doanh nghiệp. Ví dụ, để đẩy nhanh tiến độ triển khai gói hỗ trợ lãi suất 2%, có thể nên hỗ trợ lãi suất cả đồng ngoại tệ cho những doanh nghiệp xuất khẩu. Thực tế, có những doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản thuộc nhóm ngành được hỗ trợ lãi suất nhưng họ chỉ vay bằng ngoại tệ...

Lắng nghe ý kiến cộng đồng doanh nghiệp kể cả khi chính sách đã ban hành

Đề xuất giải pháp để thúc đẩy tiến độ triển khai Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội, ông Nguyễn Trúc Lê cho hay: “Theo chúng tôi đầu tiên về phía các cơ quan triển khai chính sách, cần tiếp tục lắng nghe ý kiến cộng đồng doanh nghiệp về tính khả thi, dễ tiếp cận của một chính sách, kể cả khi chính sách đã được ban hành”.

Thứ hai là mặc dù đã có hệ thống báo cáo, tuy nhiên cần có hệ thống giám sát, đánh giá phản hồi và hướng dẫn kịp thời với các địa phương.

Thứ ba là rà soát lại các tiêu chí liên quan tới điều kiện đánh giá của các doanh nghiệp, chỉnh sửa các tiêu chí sao cho phù hợp với thực tiễn của doanh nghiệp, thậm chí bổ sung các tiêu chí mới trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đối diện nhiều thách thức…

Thứ tư là cần hỗ trợ có mục tiêu. Ví dụ hỗ trợ các doanh nghiệp tạo bệ đỡ kinh tế như doanh nghiệp dịch vụ, logistics, công nghiệp hỗ trợ, công nghệ cao….

Ngoài ra, quan điểm của nhóm nghiên cứu là trong dài hạn nên điều chỉnh giảm bớt các chính sách giảm thuế và có thể nên gia tăng các chính sách gia hạn thuế.

Cuối cùng, một quan điểm trọng yếu nữa của nhóm nghiên cứu là đảm bảo tính minh bạch của các gói hỗ trợ lãi suất, giúp các doanh nghiệp nhận được các gói hỗ trợ phù hợp, tiếp tục tạo niềm tin cho doanh nghiệp và người dân.

Ngày 30/1/2022, Chính phủ ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 30/1/2022 về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình.

Tổng quy mô hỗ trợ lên tới gần 350.000 tỷ đồng, chia thành 4 nhóm giải pháp, trong đó, quy mô của các giải pháp thuộc nhóm chính sách tài khóa lên tới 237.650 tỷ đồng, chiếm 68,53%, các giải pháp thuộc chính sách tiền tệ là 46.000 tỷ đồng, tương đương 13,26%, các giải pháp thuộc nhóm chính sách an sinh xã hội là 53.150 tỷ đồng, tương ứng 15,55%, và cuối cùng là các giải pháp khác là 10.000 tỷ đồng, tương ứng 2,88% tổng giá trị của chương trình.

Đọc tiếp