

![]() |
* Bài viết của Đại biểu Quốc hội Nguyễn Huy Thái (Phó trưởng Đoàn chuyên trách Đoàn ĐBQH tỉnh Bạc Liêu; nguyên Phó giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bạc Liêu).
![]() |
Nếu phải nói một từ ngắn gọn nhất về đặc trưng của ĐBSCL, chắc chắn từ ấy chỉ gói trong một chữ: “Nước”. Ở vùng sông nước độc đáo này, “rạch bên hông – sông cửa trước - nước cửa sau”. Nhờ hệ thống sông Mekong mà tài nguyên nước của ĐBSCL phong phú bậc nhất trong cả nước. Địa hình, địa mạo, hệ sinh thái tự nhiên, cùng lịch sử cuộc khẩn hoang mở đất… đã làm nên tính cách con người và đặc thù văn hóa sông nước, văn minh miệt vườn.
Trong hành trình khai mở đất phương Nam, những cư dân thuộc thế hệ đầu tiên xuôi theo con nước mà lập ấp, dựng làng; “Từ bên đây sông Tiền/ Qua bên kia sông Hậu” - (nhà văn Sơn Nam); và cứ lần hồi xuôi về phương Nam. Sông nước đồng bằng tạo nên hấp lực để lưu dân quần tụ, định cư và phát triển thành cộng đồng các dân tộc Kinh, Khmer, Hoa, Chăm.
Sự giao thoa trong suốt quá trình cộng sinh của bốn dân tộc đã tạo nên những giá trị văn hóa - lịch sử đặc sắc, với bản sắc văn hóa không thể trộn lẫn với bất cứ vùng miền nào. Đó là các lễ hội truyền thống; tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh; phong tục, tập quán; các di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể; văn hóa ẩm thực; hệ sinh thái sông nước; những khu vực sinh thái miệt vườn, sinh thái rừng tràm ngập nước, sinh thái ngập mặn ven biển, hệ sinh thái biển đảo…
Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, là hệ điều tiết cho sự phát triển, là nguồn sức mạnh nội sinh và là động lực vô cùng quan trọng để dựng nước và giữ nước. Văn hóa thịnh thì đất nước thịnh trị, văn hóa suy thì đất nước suy vong. Ở đồng bằng châu thổ này, tiền nhân xưa khai mở đất và giữ đất đã bằng sức mạnh nội sinh ấy mà chiến thắng muỗi mòng, thú dữ, thiên tai, địch họa... gây dựng nên, trao truyền lại cho chúng ta một miền đất mới được cho là trù phú nhất của đất nước.
Một đồng bằng được người nơi khác nhắc đến với những cánh đồng bao la bát ngát thẳng cánh cò bay, những con sông, con rạch hiền hòa phù sa ăm ắp, những mùa nước nổi sóng bạc trắng đồng, vàng bông điên điển, cá tôm đầy lưới, cây trái tốt tươi; nước ròng chở nặng câu hò, điệu lý, cùng câu vọng cổ xuống mùi; rộn ràng múa lúa mới, ghe biển cập bờ cá mú đầy khoang…
Người đồng bằng châu thổ đã phát huy bản sắc văn hóa riêng biệt, độc đáo, gắn với phát triển kinh tế - xã hội. Dễ nhìn thấy nhất là làm du lịch. Trong đó, yếu tố chủ chốt tạo nên nguồn lực nội sinh chính là con người (tố chất của hậu duệ những người khai mở đất; khả năng thích nghi, ứng phó trước thách thức của thiên nhiên, khả năng dung hòa, linh hoạt trong mọi hoàn cảnh); là tri thức dân gian tích lũy trong suốt dọc dài hành trình khai mở đất này.
Cùng với đó là những di sản văn hóa phong phú, đặc sắc. Tiêu biểu, nghệ thuật đờn ca tài tử Nam bộ đã được UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể nhân loại – một di sản văn hóa của nhân loại đầu tiên của phía Nam nước Việt.
ĐBSCL với mênh mông sông nước, đất đai trù phú. Ảnh: Tiến Trình, Y Lan
![]() |
Thời gian qua, đầu tư cho phát triển văn hóa đã được quan tâm ngày một nhiều hơn, từ đầu tư phát triển nguồn nhân lực; bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể, trùng tu, tôn tạo, bảo tồn di tích; chăm lo cho các di sản văn hóa; đến các thiết chế văn hóa, trang thiết bị hoạt động văn hóa cơ sở… Thành quả của đầu tư đang là điều hiển hiện, ở tầm vĩ mô, chúng ta thấy quá rõ điều này.
Tuy nhiên thực tế, vẫn còn có rất nhiều tồn tại và trăn trở. Đã có ý kiến cho rằng: “Những gì hay nhất, chúng ta đều dành để nói về văn hóa. Nhưng những gì tốt đẹp nhất, chúng ta chưa hẳn dành cho văn hóa” – (đại biểu Quốc hội Bùi Hoài Sơn - Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội). Văn hóa như một sức mạnh mềm giúp kết nối các lĩnh vực của đời sống xã hội trở nên bền vững hơn thì các lĩnh vực đó cũng cần có “bổn phận” chăm lo ngược trở lại cho văn hóa như một mối quan hệ hữu cơ, tương hỗ… Song thực tế, rất tiếc là mọi chuyện diễn ra chưa hẳn thế.
“Thôn xóm bây giờ vắng tiếng ầu ơ/ Mẹ ru con bằng băng cát-xét/ Điêu đứng vũ trường nhạc Rốc/ Điệu dân ca em hát một mình”, đoạn thơ ấy cách đây gần ba chục năm, giờ ngẫm lại, có vẻ tình hình vẫn chưa nhiều cải thiện. Thôn xóm giờ càng vắng giọng ru con, thậm chí còn ồn ã âm thanh loa kẹo kéo, dàn karaoke làm “phương hại” tình làng nghĩa xóm. Điệu dân ca được xây dựng thành những chương trình hoành tráng, có hiệu ứng của ánh sáng, âm thanh hiện đại, dàn dựng công phu...
Cồng chiêng Tây Nguyên cần phải có một không gian buôn làng, bên nhà rông, giữa đại ngàn, cùng ánh lửa bập bùng thơm mùi khói quyện trong sương lạnh gió núi và men say rượu cần. Đờn ca tài tử Nam bộ thì cần một không gian với vườn cây ven kinh, hay mảnh chiếu trải trước nhà, những lớp lang bài bản, điệu thức đan xen cùng nhau trong giao lưu của tài tử đờn, tài tử ca, như giao duyên của các liền anh, liền chị quan họ…
Nhưng những hình ảnh truyền thống ấy đang dần ít đi, thay bằng các sân khấu hoành tráng. Việc quảng bá các giá trị văn hóa bằng phương thức hiện đại tất nhiên là cần thiết, nhưng liệu lâu dài có làm mất đi cái hồn cốt dân tộc?
![]() |
Hơn hết, ở ĐBSCL, trăn trở lớn nhất là phát triển, nâng cao trình độ văn hoá, giáo dục - bệ phóng cho bất kỳ vùng miền hay địa phương nào. Việc nâng cao nhận thức của người dân là yếu tố sống còn để giữ gìn, phát huy các giá trị văn hoá. Nhất là trong bối cảnh ĐBSCL đang đối mặt với vấn đề cấp bách là nước biển dâng, hạn hán, xâm nhập mặn, sụt lún, sạt lở, môi trường ô nhiễm, cạn kiệt sinh dưỡng đất đai…
Thiên tai là khách quan, còn nhân tai rõ ràng do chủ quan của con người, và nhân tai thì đang được nhận diện ngày một rõ nét. Đó là quản lý, khai thác nguồn tài nguyên nước ngầm chưa phù hợp khiến đồng bằng sụt lún; khai thác cát lòng sông dẫn đến hạ thấp đáy sông, áp lực của nước ngọt không đủ sức ngăn nước mặn từ biển tràn vào, xâm nhập sâu vào nội đồng và làm biến dạng dòng chảy.
Những bãi sình, đầm lầy tự nhiên bên các triền sông trước đây có tác dụng giữ nước mùa lũ, “nhả” nước từ từ vào mùa khô, nay lại thành những vùng canh tác lúa, không còn khả năng trữ nước nữa... Con người, nếu cứ nặng về “chế thiên” mà xem nhẹ “thuận thiên”, cản trở tự nhiên vận hành theo quy luật, thì sẽ làm tổn thương hệ sinh thái vốn nhạy cảm này, xói mòn các địa điểm, di tích văn hoá đã và đang là đặc trưng, niềm tự hào của vùng châu thổ.
![]() |
Mục tiêu của Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hoá giai đoạn 2025-2035 vừa được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 8 đã cho thấy rõ hướng đi, đích đến. Trong đó mục tiêu đầu tiên là tạo chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện trong phát triển văn hóa và xây dựng, hoàn thiện nhân cách, chuẩn mực đạo đức, bản sắc, bản lĩnh, hệ giá trị con người, gia đình Việt Nam...
Được tiếp cận hồ sơ do Chính phủ trình Quốc hội, hồ sơ do cơ quan thẩm tra của Quốc hội trình ra Quốc hội; nghe các ý kiến thảo luận, tham luận, tranh luận, phản biện, giải trình… tôi có niềm tin, kỳ vọng vào hiệu quả thực hiện Chương trình. Đây sẽ là thời điểm chúng ta chứng kiến sự thay đổi với quyết tâm cao, hành động thực sự, hướng đến hiệu quả thực chất, để văn hóa trở thành sức mạnh thực sự trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Đặc biệt với ĐBSCL, khi được tiếp nhận Chương trình hứa hẹn sẽ có chuyển biến tích cực nâng cao nhận thức về văn hoá. Theo đó, cần có một chiến lược, đi kèm theo đó là những giải pháp căn cơ, hướng đến tâm thế của người ĐBSCL trước những vấn đề hiện nay của đồng bằng. Cần xác định, nguồn lực nội sinh để đồng bằng phát triển chính là nhân tố con người. Nguồn lực ấy, trước những gian nan, thách thức ở thì hiện tại, hơn bao giờ hết cần được bồi bổ sức mạnh của mối cố kết cộng đồng bền chặt.
Chúng ta xây dựng pháp luật cũng là để điều chỉnh mọi hành vi của con người trong xã hội theo khuôn khổ mà chúng ta đã định ra, và phù hợp với thuần phong, mỹ tục của một quốc gia ngàn năm văn hiến. Về điều này, ngạn ngữ phương Tây có câu: “Pháp luật chỉ là đạo đức tối thiểu, đạo đức mới là pháp luật tối đa”. Đúng vậy, đạo đức là nền tảng, là yếu tố căn cơ nhất chi phối, điều chỉnh mọi hành vi. Vì vậy, đầu tư cho sự nghiệp giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường, giáo dục xã hội một cách hài hoà cũng chính là đầu tư cho văn hóa.
Đồng thời, việc quan trọng là tập trung nguồn lực để giải quyết những vấn đề cấp thiết của ĐBSCL, trong đó nổi cộm là việc ứng phó ra sao với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường. Hệ sinh thái đồng bằng gắn với các sản phẩm du lịch văn hóa là một thế mạnh đặc thù của ĐBSCL. Do đó việc bảo vệ môi trường, cảnh quan… là yếu tố sống còn. Thực tế hiện nay dường như đang phổ biến tình trạng con người “tàn sát” thiên nhiên và môi trường nhiên. Nặng về “chế thiên”, xem nhẹ “thuận thiên” – trong khi lẽ ra phải thật sự hài hòa. Chủ trương phát triển nền kinh tế xanh, sạch, tuần hoàn, bền vững, bao trùm là sự cụ thể hóa mối quan hệ giữa “thuận thiên” và “chế thiên” ở Việt Nam hiện nay.