Vấn đề này đã được luật hóa tại Việt Nam và là một chương trình quốc gia được các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và người dân hưởng ứng.
Schneider Electric (SE) là một trong những tập đoàn được ghi nhận phát triển bền vững nhất thế giới do Corporate Knights đánh giá trong bảng xếp hạng 100 doanh nghiệp toàn cầu vào năm 2021. Hiện SE có hoạt động tại hơn 130 quốc gia trên thế giới và dẫn đầu trong việc sử dụng năng lượng hiệu quả và tiết kiệm.
Mekong ASEAN đã có cuộc trao đổi với ông Đồng Mai Lâm, Tổng Giám đốc Schneider Electric Việt Nam & Campuchia, tập đoàn đa quốc gia của Pháp sản xuất các sản phẩm quản lý điện năng, tự động hóa và các giải pháp.
Mekong ASEAN: Ông có thể chia sẻ việc sử dụng năng lượng hiệu quả và tiết kiệm tại các nước được thực hiện ra sao? Đối với Việt Nam, theo ông những vấn đề gì cần được ưu tiên triển khai?
Ông Đồng Mai Lâm: Những năm vừa qua, các nước trên thế giới đã có nhiều bước tiến quan trọng về chính sách, hỗ trợ tài chính và công nghệ, từ đó thúc đẩy và rút ngắn khoảng cách xanh (Green Gap) biến tham vọng thành hành động của các doanh nghiệp trong việc thực hiện cam kết Net Zero, đặc biệt là lĩnh vực năng lượng.
Việt Nam đã thể hiện sự quan tâm đối với vấn đề môi trường khi tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu, Nghị định thư Kyoto và Thỏa thuận Paris… Tại Hội nghị COP26 năm 2021, Việt Nam đã có nhiều cam kết mong muốn chuyển đổi xanh một cách mạnh mẽ, đặc biệt là cam kết phấn đấu đạt Net Zero vào năm 2050. Để thực hiện được cam kết này, có một số vấn đề quan trọng mà Việt Nam cần triển khai.
Về mặt quản lý nhà nước, việc hoàn thiện thể chế, cải thiện khuôn khổ pháp luật có hướng dẫn rõ ràng hơn dành cho lĩnh vực tiết kiệm năng lượng để thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư vào việc tiết kiệm năng lượng là rất cần thiết. Theo đó, Chính phủ cũng dễ dàng giám sát, phân tích đo lường hiệu quả.
Việc chuyển đổi xanh, phát triển bền vững cần nguồn lực tài chính rất lớn, do đó Nhà nước cũng cần tăng cường các chính sách, cơ chế hỗ trợ về vốn dành cho doanh nghiệp.
Cùng với đó, hoạt động tuyên truyền kiến thức về tiết kiệm năng lượng, phát triển bền vững và đào tạo nguồn lực để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của ngành cũng cần được đẩy mạnh.
Về mặt công nghệ, các chính sách khuyến khích và hỗ trợ sẽ giúp doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư và thay thế các thiết bị cũ sang các thiết bị công nghệ hiện đại hơn, tích hợp tự động hóa vừa tiết kiệm năng lượng, nâng cao hiệu suất và giảm phát thải, bảo vệ môi trường. Mặt khác, cũng cần khuyến khích và thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu, phát triển giải pháp, công nghệ để hỗ trợ tiết kiệm năng lượng.
Những thiết bị, công nghệ mới cần có hạ tầng kỹ thuật số tương thích mới mang lại hiệu quả tối ưu. Đầu tư nâng cấp hạ tầng kỹ thuật số, xây dựng, phát triển hạ tầng băng thông rộng chất lượng cao, áp dụng những tiêu chuẩn, quy chuẩn đồng nhất cho hạ tầng giữa các khu vực trong nước là những vấn đề vô cùng quan trọng. Đơn cử như việc phát triển năng lượng tái tạo phải có hạ tầng lưới điện truyền tải để đưa điện sạch hòa vào lưới điện quốc gia.
Ông Đồng Mai Lâm, Tổng Giám đốc Schneider Electric Việt Nam & Campuchia. Ảnh: SE |
Mekong ASEAN: Bằng cách nào để doanh nghiệp vừa tăng lợi nhuận, vừa sản xuất xanh, bền vững, thưa ông?
Ông Đồng Mai Lâm: Công nghệ và trí tuệ nhân tạo đã có những đóng góp quan trọng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp quản lý năng lượng và nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty trở nên xanh, bền vững hơn. Tuy nhiên, mối lo ngại về chi phí khi đầu tư vào sản xuất kinh doanh “xanh” vẫn đang là một rào cản lớn với nhiều doanh nghiệp.
Theo tôi, giải pháp cho vấn đề này cần xây dựng mô hình tích hợp giá trị kinh tế hữu hình và phi tài chính vào quyết định đầu tư.
Lấy ví dụ cụ thể, chúng tôi xác định giá trị của tòa nhà xanh một cách toàn diện từ những giá trị kinh tế hữu hình như tiết kiệm chi phí vận hành, gia tăng giá trị bất động sản và giá cho thuê… Giá trị vô hình như hình ảnh doanh nghiệp, lợi thế cạnh tranh, phát triển bền vững, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp với cộng đồng trong hiện tại và tương lai.
Đối với các tòa nhà văn phòng hiện hữu, nếu đầu tư cải tạo hệ thống quản lý tòa nhà, quản lý năng lượng, pin mặt trời, theo tính toán thời gian hoàn vốn từ tiết kiệm chi phí vận hành khoảng 10 năm. Tuy nhiên, ở đây chưa tính đến các giá trị như giá cho thuê tăng lên, giá trị thương hiệu, giá trị bất động sản tăng thêm.
Với các tòa nhà xây mới, chi phí đầu tư ban đầu cho một tòa nhà xanh cao hơn khoảng 4-6% so với tòa nhà thông thường. Mức này có thể giảm xuống dưới 4% vào năm 2030 khi công nghệ phát triển hơn. Đây là một mức hoàn toàn có thể chấp nhận được so với giá trị mang lại của một tòa nhà xanh.
Nhiều người đã đặt câu hỏi, làm thế nào để thực hiện cả 2 yếu tố phát triển bền vững và cân bằng chi phí đầu tư. Theo tôi, tăng trưởng kinh doanh và phát triển bền vững không còn là bài toán cân nhắc lựa chọn. Điều này đã trở thành quyết định sống còn đối với tất cả các doanh nghiệp tham gia thị trường.
Chúng ta có khái niệm “triple bottom lines”, nghĩa là doanh nghiệp thành công không còn được đánh giá dựa vào nguồn lực tài chính mà còn được đánh giá dựa vào lợi ích mang đến cho cộng đồng xã hội, con người và môi trường.
Về mặt công nghệ, ứng dụng nhiều hơn công nghệ về điện hoá, số hoá chính là chìa khóa cân bằng bài toán này. Với điện hoá, chúng ta sử dụng năng lượng có hiệu quả hơn so với nguồn năng lượng hoá thạch. Đặc biệt là nguồn điện sạch từ năng lượng tái tạo. Số hoá giúp đưa ra giải pháp cho tòa nhà, nhà máy để thông minh hơn từ đó giúp chúng ta sử dụng năng lượng có hiệu quả nhất. Đó là khoản đầu tư lâu dài và lợi ích mang lại.
Và xây dựng một hệ sinh thái bền vững sẽ mang lại giải pháp toàn diện, giúp giảm chi phí phát sinh.
Để theo đuổi bền vững và số hóa thì phải chung tay hành động. Chúng ta muốn hoàn thành cuộc hành trình này cần có các đối tác đồng hành để tiến xa hơn, thực hiện cam kết giảm phát thải ròng về 0 mạnh mẽ hơn.
Mekong ASEAN: Hiện nay, một trong những giải pháp chuyển dịch năng lượng được nhắc đến nhiều là phát triển xe điện (EV) thay thế xe xăng. Ông có nhận định gì về thị trường xe điện tại Việt Nam và triển vọng trong tương lai?
Ông Đồng Mai Lâm: Theo báo cáo thường niên về EV của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) công bố ngày 26/4/2023, doanh số bán xe điện (EV) đang tăng mạnh và dự kiến sẽ chiếm gần 20% số xe bán ra trong năm 2023. Trong báo cáo này, IEA dự kiến doanh số bán hàng hàng năm sẽ tăng 35% trong năm nay, đạt 14 triệu xe và thị phần EV sẽ ở mức 18%, tăng từ mức 4% trong năm 2020.
Doanh số EV tăng đồng nghĩa với việc nhu cầu về trạm sạc cũng tăng theo.
Tại Việt Nam, thách thức đặt ra là cơ sở hạ tầng trạm sạc vẫn chưa đủ phát triển và công nghệ liên quan vẫn còn hạn chế. Điều này đặt ra một nhiệm vụ lớn cho ngành công nghiệp để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người dùng EV.
Những người sử dụng EV có nhu cầu sạc khi dừng chứ không phải dừng để sạc. Với sự phát triển của công nghệ, tầm hoạt động của EV ngày càng xa hơn vì thế nhu cầu dừng lại để sạc EV càng ngày càng nhỏ đi.
SE đã đưa ra 2 giải pháp cho vấn đề này, từ trạm sạc công suất lớn ở nơi công cộng (EVlink Pro DC 180 kW) đến giải pháp sạc gia đình (EVlink Pro AC), phục vụ hầu hết các mẫu xe điện trên thị trường theo tiêu chuẩn quốc tế. Ngoài ra, SE còn cung cấp nền tảng EcoStruxure cho eMobility EV Advisor để quản lý sạc EV giúp cải thiện thời gian hoạt động và hiệu suất của trạm sạc.
Năm 2023, SE đã hợp tác với EV One, công ty khởi nghiệp về các giải pháp xe điện tại Việt Nam. EV One đã triển khai việc lắp đặt các thiết bị sạc xe điện đến người dùng có nhu cầu sử dụng ở nhiều nơi.
EV One bắt đầu vận hành hệ thống trạm sạc công cộng tại TP HCM từ tháng 12/2023 và dự kiến sẽ phủ rộng mạng lưới sạc xe điện thông minh lên con số 80 trên toàn quốc vào cuối năm 2024.