Xây dựng một nền kinh tế mạnh, tự cường, tự chủ là mục tiêu then chốt đã được Đảng, Nhà nước xác định và ngày càng được thể chế hoá rõ nét trong các quyết sách của Quốc hội, Chính phủ. 'Hạ tầng chính sách' đang tạo ra cho các doanh nghiệp một 'bàn đạp' mạnh để vươn lên làm chủ khoa học công nghệ, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao để tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu. |
Thẩm tra báo cáo kết quả thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2021 - 2025 tại kỳ họp thứ 10, Ủy ban Kinh tế - Tài chính Quốc hội nhận định, năm 2025 và giai đoạn 2021 - 2025, phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đạt kết quả toàn diện, nổi bật, trong đó thể hiện sự nỗ lực bứt phá trong hai năm cuối nhiệm kỳ.
Mặc dù vậy, Ủy ban Kinh tế - Tài chính cũng thẳng thắn chỉ ra những khó khăn và thách thức cần quan tâm đánh giá kỹ hơn. Cụ thể là động lực tăng trưởng chưa mạnh, mục tiêu tăng trưởng đang chịu sức ép do các động lực chính (xuất khẩu, tiêu dùng, đầu tư) chưa thực sự tạo xung lực đủ mạnh, trong khi xuất khẩu vẫn phụ thuộc lớn vào khu vực đầu tư nước ngoài (FDI)...
Ngoài ra, chất lượng tăng trưởng cũng còn bộc lộ một số hạn chế. Nền kinh tế vẫn chủ yếu dựa vào gia công, nhập khẩu nguyên liệu và công nghệ. Năng suất lao động cải thiện chậm; bình quân giai đoạn 2021-2025 chỉ đạt 5,24%, thấp hơn nhiều so với mục tiêu 6,5% nhiệm kỳ đề ra.
![]() |
Là đại biểu Quốc hội với nhiều trăn trở về các vấn đề kinh tế, GS.TS Hoàng Văn Cường (Đoàn Hà Nội) nêu thực tế, hiện nay ở một số ngành có tình trạng doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu linh kiện từ nước ngoài, lắp ráp trong nước. Theo ông, cách làm này tuy mang lại lợi nhuận nhanh nhưng về lâu dài sẽ triệt tiêu năng lực sản xuất trong nước, làm mất đi nền tảng của công nghiệp quốc gia.
Phân tích kỹ thêm về vấn đề này, GS.TS Hoàng Văn Cường cho biết, Việt Nam là một nền kinh tế mở, hướng mạnh vào xuất khẩu, thuộc nhóm 20 quốc gia có quy mô thương mại hàng đầu thế giới. Tuy nhiên điều đáng suy nghĩ là năng suất lao động của Việt Nam vẫn thuộc nhóm thấp, thu nhập bình quân đầu người mới đạt khoảng 5.000 USD - chỉ vừa vượt ngưỡng trung bình thấp. Nguyên nhân cốt lõi theo ông Cường là mô hình xuất khẩu hiện nay chủ yếu dựa vào gia công, lắp ráp, khiến phần lớn giá trị gia tăng thuộc về các doanh nghiệp nước ngoài.
“Một chiếc áo xuất khẩu giá 20 USD, doanh nghiệp Việt Nam chỉ hưởng khoảng 2 USD. Dù có tăng gấp đôi năng suất cũng chỉ hưởng 4 USD trong khi nước ngoài hưởng 40 USD,” vị đại biểu trăn trở khi chia sẻ với Mekong ASEAN.
GS Cường cho rằng, nếu không thay đổi mô hình, dù kim ngạch xuất khẩu đạt 1.000 tỷ USD, phần giá trị giữ lại vẫn chỉ quanh 200 tỷ USD. Điều này khiến Việt Nam về lâu dài khó bứt phá về thu nhập, dễ rơi vào bẫy thu nhập trung bình.
Năm 2026 là năm đầu triển khai Nghị quyết Đại hội XIV của Đảng và kế hoạch 5 năm 2026 - 2030, hướng đến phấn đấu đạt tăng trưởng GDP đạt 10% trở lên, tăng trưởng đi cùng với ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển bền vững. Để đạt được mục tiêu này, GS.TS Hoàng Văn Cường cho rằng, Việt Nam buộc phải tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển từ mô hình gia công sang mô hình làm chủ các khâu có giá trị cao trong chuỗi giá trị toàn cầu. Vì vậy theo ông, nội dung quan trọng trong xây dựng chính sách phát triển kinh tế tư nhân cần được nhấn mạnh là phải có cơ chế bảo hộ hợp lý, đồng thời đặt hàng chiến lược cho các ngành sản xuất nội địa.
![]() |
Cũng trăn trở với vấn đề nâng cao nội địa hoá để doanh nghiệp Việt Nam tự chủ, đại biểu Nguyễn Như So (Chủ tịch Tập đoàn Dabaco Việt Nam) cho rằng, trước xu hướng bảo hộ và thương mại toàn cầu thu hẹp, Việt Nam cần chuyển từ tăng quy mô xuất khẩu sang tăng giá trị nội địa. Theo ông, hiện tỷ lệ nội địa hóa của Việt Nam thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực, khiến nền kinh tế dễ bị tác động và khó đáp ứng tiêu chí xuất xứ được quy định trong các hiệp định thương mại tự do (FTA).
Vị đại biểu đề nghị hình thành lực lượng doanh nghiệp trong nước đủ quy mô và năng lực làm trụ cột sản xuất, tăng tỷ lệ nội địa hóa, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, phát triển thiết kế, chế tạo trong nước. Theo ông, trong thu hút FDI, cần quy định rõ cam kết về nội địa hóa và liên kết với doanh nghiệp Việt, để FDI thực sự trở thành chất xúc tác nâng cao năng lực sản xuất nội địa. “FDI phải là bàn đạp để nâng tầm giá trị ‘Made in Vietnam’, giúp doanh nghiệp Việt làm chủ các khâu có giá trị cao trong chuỗi cung ứng toàn cầu,” ông So nêu ý kiến.
![]() |
![]() |
Theo ông Nguyễn Duy Minh - Phó trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách TP Đà Nẵng, để xây dựng nền kinh tế tự lập, tự cường, yêu cầu then chốt là phát triển doanh nghiệp hỗ trợ để phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, quyết định năng lực làm chủ sản xuất và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của Việt Nam. Ông cho rằng, Việt Nam đã tham gia hàng loạt hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, mở ra cơ hội lớn về thuế suất ưu đãi nhưng cũng đặt ra yêu cầu nghiêm ngặt về nguyên tắc xuất xứ và tỷ lệ nội địa hoá. Nếu doanh nghiệp trong nước vẫn phụ thuộc vào linh kiện nhập khẩu, nhiều sản phẩm sẽ không đáp ứng được yêu cầu về xuất xứ Việt Nam, dẫn đến mất ưu đãi thuế và có nguy cơ bị áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại.
Hướng đi tới đây, do đó, “Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân đã khẳng định, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo là trọng tâm ưu tiên. Đây là cơ sở chính trị vững chắc để khu vực kinh tế tư nhân trở thành nòng cốt, cùng khu vực FDI và doanh nghiệp Nhà nước hình thành ba trụ cột của công nghiệp Việt Nam,” ông Minh phát biểu tại phiên thảo luận hội trường về tình hình kinh tế xã hội ngày 29/10 vừa qua.
Theo vị đại biểu, các cơ chế chính sách hỗ trợ công nghiệp hỗ trợ vẫn đang phân tán ở nhiều luật, nghị định khác nhau, chưa đồng bộ, chưa đủ mạnh để thúc đẩy phát triển. Vì vậy, ông đề xuất sớm xây dựng Luật Phát triển công nghiệp hỗ trợ để hình thành khung pháp lý thống nhất, ổn định. Cùng với đó, ông Minh đề xuất triển khai thực hiện quỹ công nghiệp hỗ trợ quốc gia ngay trong năm 2026, đảm bảo vốn vay ưu đãi đến với các doanh nghiệp sản xuất linh kiện, vật liệu, công nghệ chính xác...
![]() |
![]() |
Để tăng tỷ lệ nội địa hoá, phát triển công nghiệp hỗ trợ thì yếu tố then chốt chính là công nghệ và nhân lực. Đảng, Nhà nước cũng đã xác định tầm quan trọng của hai nền tảng này và tích cực thúc đẩy thời gian qua. Dự thảo Văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng nêu rõ: Giai đoạn 2026-2030 phải là bước ngoặt để Việt Nam xác lập và chuyển sang mô hình tăng trưởng mới, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính.
Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia lần đầu tiên đề cập khái niệm “công nghệ chiến lược” với việc xác định thể chế, nhân lực, hạ tầng, dữ liệu là những trụ cột cốt lõi để khuyến khích đổi mới sáng tạo. Và trên cơ sở định hướng tại Nghị quyết số 57-NQ/TW, Quốc hội đã thông qua Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo năm 2025, trong đó công nghệ chiến lược trở thành định hướng trọng tâm để Nhà nước tập trung nguồn lực, ban hành chính sách và triển khai các chương trình phát triển lâu dài.
Tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua 5 luật có tính nền tảng cho lĩnh vực công nghệ nước nhà, gồm Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; Luật Công nghiệp công nghệ số; Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi); Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa; Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật; đánh dấu sự thay đổi tư duy quản lý, từ kiểm soát quy trình và đầu vào sang quản lý kết quả và hiệu quả đầu ra, chấp nhận rủi ro nhưng đi với quản trị rủi ro trong nghiên cứu khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Quốc hội đang tiếp tục xem xét thông qua 5 luật tại kỳ họp thứ 10 này, gồm Luật Chuyển đổi số; Luật Công nghệ cao (sửa đổi); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ và Luật Trí tuệ nhân tạo. Trong đó, dự thảo Công nghệ cao (sửa đổi) đã thiết lập một cơ chế ưu đãi cụ thể cho công nghệ chiến lược, đó là hưởng mức độ thuế suất thấp. Cụ thể, thuế 5% trong 15 năm đối với doanh nghiệp công nghệ chiến lược mức 1; 7% trong 15 năm đối với công nghệ chiến lược mức 2 và doanh nghiệp công nghệ cao mức 1; 15% trong 15 năm cho doanh nghiệp công nghệ cao mức 2. Đây chính là minh chứng cho sự chuyển dịch mạnh mẽ trong tư duy làm luật, từ khuyến khích chung đến chính sách trọng tâm trọng điểm, nhằm đạt được năng lực tự chủ công nghệ quốc gia.
Về nhân lực, Nghị quyết 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo nêu rõ mục tiêu xây dựng, đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu Việt Nam trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2030 đạt kết quả bước đầu về nâng cao năng lực công nghệ, trí tuệ nhân tạo và năng lực tiếng Anh ở bậc phổ thông. Chỉ số giáo dục đóng góp vào chỉ số phát triển con người (HDI) đạt trên 0,8, trong đó chỉ số bất bình đẳng giáo dục giảm xuống dưới 10%.
Tỷ lệ người trong độ tuổi theo học các trình độ sau trung học phổ thông đạt 50%. Tỷ lệ người lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở lên đạt 24%. Tỷ lệ người học các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật và công nghệ đạt ít nhất 35%, trong đó có ít nhất 6.000 nghiên cứu sinh, 20.000 người học các chương trình tài năng. Chỉ số vốn con người và nghiên cứu đóng góp vào chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) ngang bằng các nước có thu nhập trung bình cao...
Ngoài các dự thảo luật về công nghệ liên quan mật thiết đến phát triển nhân lực chất lượng cao, Quốc hội cũng xem xét, thông qua một số dự thảo luật về dân số, giáo dục đào tạo, cán bộ viên chức tại kỳ họp thứ 10 này, gồm: Luật Dân số, Luật Giáo dục đại học (sửa đổi), Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi), Luật Viên chức (sửa đổi), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục. Cùng với đó là Nghị quyết của Quốc hội về những cơ chế, chính sách đặc thù để thực hiện Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo; Chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026 - 2035.
![]() |
Tổng Bí thư Tô Lâm trong bài phát biểu tại Lễ kỷ niệm 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử ngày 2/9/2025, đã nhấn mạnh đến một lời hứa với lịch sử, và với cả tương lai: "Hướng tới tương lai, Đảng ta đặt mục tiêu đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, Việt Nam là quốc gia hùng cường, thịnh vượng, hạnh phúc. Đó là khát vọng của cả dân tộc, là lời thề danh dự trước lịch sử, trước nhân dân".
Với khát vọng đó, với ý chí đó, Việt Nam đang đứng trước thời cơ lịch sử để bứt phá lên vị thế mới. Những chiến lược căn cơ đã dần hoàn thiện, nhằm giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực. Bây giờ là lúc, mỗi người dân, mỗi doanh nghiệp cùng cả nước chung tay hiện thực hoá những chiến lược đó. “Nhà nước kiến tạo - doanh nhân tiên phong - công tư đồng hành - đất nước hùng cường - nhân dân hạnh phúc,” Mekong ASEAN xin dẫn thông điệp của Thủ tướng Phạm Minh Chính trong những sự kiện gần đây để thay lời kết cho loạt bài này. Với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và sự đồng lòng, đoàn kết của cộng đồng doanh nghiệp, mọi tầng lớp người dân, chắc chắn Việt Nam sẽ sớm về đích trên con đường đã chọn.