![]() |
Lời toà soạn: Mùa Thu năm 2025 đánh dấu mốc son lịch sử 80 năm kể từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trong suốt tám thập kỷ qua, phát triển kinh tế luôn giữ vai trò trung tâm trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc.
Song, vòng xoáy kinh tế thế giới đang chuyển động từng ngày, khát vọng cho một Việt Nam trở thành quốc gia phát triển, thịnh vượng vẫn ở phía trước. 4 trụ cột chính sách đã được dựng lên, sự vươn mình mạnh mẽ của Việt Nam đang chờ đón những bứt phá từ nội lực của nền kinh tế.
Với tuyến bài "80 năm dựng xây và phát triển", Mekong ASEAN mong muốn đem đến một góc nhìn về những thành tựu của đất nước trong suốt 8 thập kỷ qua, đồng thời gợi mở những vấn đề đang đặt ra trong sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước trong giai đoạn mới.
Theo số liệu của Bộ Tài chính, tính đến hết năm 2024, cả nước có 671 doanh nghiệp Nhà nước (473 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và 198 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ). Trong số này, có 6 tập đoàn kinh tế, 53 tổng công ty và phần lớn hoạt động trong các ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế.
Tính đến đầu năm 2024, các doanh nghiệp Nhà nước quản lý tổng tài sản trên 4 triệu tỷ đồng, vốn đầu tư Nhà nước hơn 1,75 triệu tỷ đồng, tạo việc làm cho gần một triệu lao động. Những con số này cho thấy vai trò quan trọng của doanh nghiệp Nhà nước trong việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn Nhà nước, góp phần ổn định kinh tế và phát triển các ngành then chốt như năng lượng, hạ tầng, viễn thông, quốc phòng, an ninh…
Về một số chỉ tiêu tài chính và kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh năm 2024 của 671 doanh nghiệp Nhà nước và 142 doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp của Nhà nước ước tính tổng doanh thu đạt 3.000.425 tỷ đồng, tăng 9% so với năm 2023, trong đó doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ là 2.241.941 tỷ đồng, doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp của Nhà nước là 758.484 tỷ đồng.
Lợi nhuận trước thuế của khối doanh nghiệp này đạt 242.951 tỷ đồng, tăng 12% so với năm 2023, trong đó doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ là 183.998 tỷ đồng, doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp của Nhà nước là 58.953 tỷ đồng. Tỷ suất Lợi nhuận trước thuế/Vốn chủ sở hữu bình quân chung của các doanh nghiệp năm 2024 là 12%, trong khi đó tỷ suất Lợi nhuận trước thuế/Tổng tài sản bình quân chung của các doanh nghiệp năm 2023 là 6%.
Về hoạt động đầu tư, các doanh nghiệp Nhà nước đã tập trung đầu tư vào các dự án trọng điểm, đảm bảo tiến độ và hiệu quả. Năm 2024, giá trị đầu tư hợp nhất của 19 tập đoàn, tổng công ty đạt khoảng 160.000 tỷ đồng, tương đương 80% kế hoạch năm và tăng 130% so với cùng kỳ. Các dự án tiêu biểu như đường dây 500kV Quảng Trạch - Phố Nối, Nhà máy Nhiệt điện Nhơn Trạch 3&4, Nhà ga T3 - Cảng Hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất… đều được triển khai đúng tiến độ, sử dụng hiệu quả vốn vay từ ADB, World Bank, JICA…
Trong 6 tháng đầu năm 2025, các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước cũng ghi nhận nhiều kết quả tích cực. Tổng doanh thu hợp nhất ước đạt 1,07 triệu tỷ đồng, bằng 50,3% kế hoạch năm, lợi nhuận trước thuế là 82.100 tỷ đồng, ước đạt 60,9% kế hoạch. Nộp ngân sách Nhà nước đạt 102.700 tỷ đồng, bằng 54,6% kế hoạch. Nhiều dự án được khai thông tháo gỡ, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế, ổn định vĩ mô, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế như Dự án Cảng Hàng không quốc tế Long Thành giai đoạn 1; chuỗi dự án khí - điện Lô B - Ô Môn; Nhà máy điện Nhơn Trạch 3 và 4; mở rộng kho LNG Thị Vải; Nhà máy lọc dầu Dung Quất mở rộng; các dự án điện Long Phú 1,....
![]() |
Không gian và cơ hội phát triển đầy đủ hơn cho doanh nghiệp Nhà nước
Những kết quả tích cực nói trên của khối doanh nghiệp Nhà nước đạt được khi Việt Nam đang ở trong một giai đoạn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2021 - 2025), thực hiện cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy, chuẩn bị, củng cố các yếu tố nền tảng, làm tiền đề để thực hiện thắng lợi mục tiêu Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2021 - 2030).
Trong bối cảnh đó, cơ chế chính sách đang hướng đến mở rộng không gian và cơ hội phát triển đầy đủ hơn cho doanh nghiệp Nhà nước nhằm tận dụng hiệu quả mọi nguồn lực hiện có và huy động đủ nguồn lực cần thiết cho phát triển.
Từ ngày 1/8/2025, Luật Quản lý và đầu tư vốn Nhà nước tại doanh nghiệp có hiệu lực tạo nhiều thuận lợi cả về phạm vi hoạt động của doanh nghiệp, tiêu chí xác định và nguồn vốn sử dụng để bổ sung vốn điều lệ.
Quy định mở rộng giới hạn đầu tư vốn thành lập doanh nghiệp Nhà nước mới và bổ sung vốn điều lệ cho doanh nghiệp Nhà nước đang hoạt động của Luật số 68/2025/QH15 đã “chạm” đến điểm nghẽn về vốn, giúp doanh nghiệp Nhà nước có đủ nguồn lực để thực hiện các dự án quy mô lớn, làm tốt vai trò, sứ mệnh và các mục tiêu phát triển.
Theo Luật số 68/2025/QH15, đầu tư bổ sung vốn điều lệ được áp dụng cho các doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoạt động có hiệu quả và có nhu cầu bổ sung vốn điều lệ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh đang hoạt động trong 8 lĩnh vực, thay vì 4 lĩnh vực theo Luật số 69/2014/QH13. Phạm vi đầu tư, tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp để xác định nhu cầu vốn điều lệ cần bổ sung; trình tự, thủ tục, hồ sơ đầu tư bổ sung vốn điều lệ cho doanh nghiệp cũng thông thoáng hơn.
Luật trao quyền mạnh mẽ hơn cho doanh nghiệp, giúp họ chủ động hơn trong các quyết định đầu tư và quản lý vốn. Doanh nghiệp Nhà nước sẽ được trích tối đa 50% lợi nhuận sau thuế vào quỹ đầu tư phát triển để sử dụng vào mục đích đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh, nhất là được quyết định chính sách tiền lương, thù lao, tiền thưởng và những quyền lợi khác của người lao động và các chức danh quản lý của người lao động.
Từ người chơi chính …
Theo PGS.TS Ngô Trí Long, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu giá (Bộ Tài chính), một quan điểm xuyên suốt trong tư duy chính sách gần đây đó là cải cách thể chế cho khu vực kinh tế tư nhân không đồng nghĩa với việc thu hẹp vai trò của doanh nghiệp Nhà nước.
Trên thực tế, sau khi Nghị quyết 68-NQ/TW khẳng định khu vực kinh tế tư nhân là “một động lực quan trọng” của nền kinh tế, thì các chính sách mới cũng cho thấy doanh nghiệp Nhà nước là “công cụ vật chất”, giữ vai trò nòng cốt để định hướng, điều tiết nền kinh tế trong những lĩnh vực thiết yếu hoặc gắn liền với mục tiêu chiến lược quốc gia.
Tuy nhiên, trong bối cảnh mới, doanh nghiệp Nhà nước không thể chỉ duy trì vai trò truyền thống là “làm thay Nhà nước”, xây dựng và phát triển thương hiệu quốc gia, mà cần vươn lên đóng vai trò dẫn dắt trong những lĩnh vực mới như: Phát triển công nghệ lõi, năng lượng tái tạo, sản xuất xanh, logistic thông minh, hạ tầng số… từ đó, thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp nền tảng và khơi thông dòng vốn tư nhân, dòng vốn đầu tư nước ngoài.
Muốn vậy, theo PGS.TS Ngô Trí Long, cần một hệ sinh thái đồng bộ từ chính sách thu hút nhân tài, cơ chế phân quyền thực chất, đánh giá hiệu quả dựa vào kết quả đầu ra, đến trách nhiệm giải trình và xử lý sai phạm rõ ràng,... Có như vậy, doanh nghiệp Nhà nước mới thực sự phát huy được vai trò dẫn dắt như kỳ vọng, không chỉ về mặt thị phần hay tài sản, mà còn trong vai trò kiến tạo, định hướng kỷ nguyên phát triển bền vững.
… đến công - tư đồng kiến tạo
Cùng bàn về doanh nghiệp Nhà nước trong giai đoạn hiện nay, theo TS. Nguyễn Quốc Việt - nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), để thúc đẩy sự chuyển đổi ở các doanh nghiệp Nhà nước nhằm nắm giữ vai trò xương sống, nền tảng của nền kinh tế thì cần thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ và nhanh chóng. Cụ thể, cần đẩy nhanh hoàn thiện thể chế thị trường tự do cạnh tranh và bình đẳng hơn, đảm bảo tính minh bạch, công khai trong các chính sách và quy định liên quan đến hoạt động của các ngành kinh tế, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, dựa trên năng lực.
Đồng thời, theo chuyên gia này, cần đẩy mạnh tái cơ cấu, cổ phần hóa thực chất, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, năng lực quản trị và điều hành cũng như tăng cường giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động. Đi cùng với đó là các cơ chế lương, thưởng và đãi ngộ và thưởng phạt nhằm khuyến khích sự sáng tạo và hiệu quả; xây dựng hệ thống các chỉ số đánh giá hiệu quả hoạt động (KPIs) rõ ràng, khách quan và có thể đo lường được và thực hiện giám sát chặt chẽ hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước thông qua các cơ chế kiểm toán độc lập, giám sát của cổ đông,...
Đặc biệt, TS. Nguyễn Quốc Việt nhấn mạnh việc cần phải tách bạch rõ ràng các nhiệm vụ mang tính chất công ích, ổn định thị trường, an sinh xã hội với hoạt động kinh doanh thuần túy. Cần tăng cường hợp tác công - tư, liên kết doanh nghiệp khu vực tư nhân để cùng triển khai các nhiệm vụ quốc gia chiến lược.