Back to homepage
03/02/2025 07:24
Để những sân khấu truyền thống sáng đèn

Các giá trị văn hóa nghệ thuật dân gian, sân khấu truyền thống của Việt Nam đầy phong phú, quyến rũ và độc đáo nhưng lại đang đứng trước nguy cơ mai một trong một thế giới mải mê bận rộn. Vì vậy, rất cần có các giải pháp tổng thể để bảo tồn và phát huy giá trị, với sự vào cuộc của mọi nguồn lực xã hội.

Để những sân khấu truyền thống sáng đèn

Việt Nam có rất nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống đặc sắc. Điển hình là Chèo - là loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống, bắt nguồn từ kho tàng văn hoá dân gian phong phú lâu đời ở Việt Nam.

Từ thế kỷ X, Kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) đã hình thành nên loại hình nghệ thuật chèo và phát triển rộng ra khắp vùng đồng bằng Bắc Bộ. Từ những làn điệu dân ca, xẩm, chầu văn, ca trù, trống quân, quan họ, đò đưa… hay nhịp điệu của các đám tế lễ, múa rước đã hoà quyện vào nhau để tạo nên phong cách riêng của nghệ thuật chèo.

Trên con đường hình thành và phát triển, nghệ thuật chèo đã tiếp nhận nhiều nhân tố mới cả về cấu trúc bài bản, làn điệu lẫn âm nhạc, múa và mỹ thuật… Những làn điệu dân ca các vùng, miền Trung, miền Nam, các dân tộc miền núi, thậm chí của cả nước khác trên thế giới được tiếp thu vào chèo để phục vụ cho việc kể chuyện thêm hấp dẫn.

Những thủ pháp sân khấu, cấu trúc kịch bản trong nghệ thuật kịch nói của phương Tây cũng được “Chèo hóa” mà vẫn giữ được bản sắc để phù hợp với sự thưởng thức của người Việt Nam. Các tổ chức nghệ thuật chèo chuyên nghiệp hiện nay tập trung ở miền Bắc.

Để những sân khấu truyền thống sáng đèn

Tuồng - còn gọi là hát bội hay hát bộ. Đây là loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống được hình thành trên cơ sở các trò diễn xướng dân gian vốn có từ lâu đời và rất phong phú của dân tộc. Ðến cuối thế kỷ XVIII, tuồng đã phát triển một cách hoàn chỉnh về mọi mặt từ kịch bản đến sân khấu biểu diễn và trong thế kỷ XIX, tuồng đã có một giai đoạn phát triển cực thịnh. Hiện nay, có 7 tổ chức nghệ thuật tuồng chuyên nghiệp hoạt động trên cả nước.

Cải lương, loại hình sân khấu kịch hát truyền thống ra đời từ những năm đầu của thế kỷ XX, được hình thành dựa trên ý nghĩa của việc cải cách, thay đổi về thủ pháp sân khấu, hình thức biểu diễn nghệ thuật, về giọng hát bắt nguồn từ nghệ thuật Hát bội; âm nhạc dựa trên cơ sở các bài bản truyền thống tài tử lưu truyền trên khắp các miền đồng bằng sông nước Cửu Long.

Vào thập niên 60 - 70, nghệ thuật cải lương phát triển ra các tỉnh miền Bắc và được coi là thời kỳ hưng thịnh nhất. Ra đời sau tuồng, chèo nhưng cải lương đã nhanh chóng được công chúng đón nhận và đã trở thành một loại hình nghệ thuật truyền thống Việt Nam. Hiện có trên 30 đơn vị nghệ thuật cải lương chuyên nghiệp trong và ngoài công lập, tập trung nhiều nhất ở các tỉnh phía Nam.

Để những sân khấu truyền thống sáng đèn

Dân ca kịch hay Kịch hát dân ca xuất hiện sau năm 1945, hình thành và phát triển dựa trên nền tảng các bài bản, các làn điệu dân ca, các hình thức diễn xướng văn hóa dân gian đặc sắc, đặc trưng cho mỗi vùng miền như bài chòi, ca Huế, dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh... Hiện nay có khoảng 6 đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp đang hoạt động trên toàn quốc.

Múa rối là loại hình nghệ thuật dân gian độc đáo, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc phát triển rộng khắp cả nước. Bằng cách mượn những quân rối để kể những câu chuyện, múa rối phản ánh cuộc sống vật chất và đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ta, đồng thời mang đậm dấu ấn của văn hóa dân gian, lan tỏa những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Múa rối là sự kết hợp giữa sân khấu, âm nhạc và các quân rối, tạo hình nhân vật điển hình trong cuộc sống. Nhờ sự tài hoa và đôi tay khéo léo của người điều khiển, các quân rối trở nên có hồn, rất sống động. Những lũy tre xanh, cổng làng trầm mặc, mặt hồ nước lung linh - đặc trưng làng quê vùng châu thổ sông Hồng là không gian lý tưởng cho nghệ thuật múa rối nước.

Múa rối nước ra đời từ nền văn minh lúa nước đã là một thú chơi tao nhã, độc đáo trong các dịp lễ, Tết và là một sáng tạo rất thú vị. Nhiều quốc gia trên thế giới có múa rối nhưng múa rối nước chỉ duy nhất có ở Việt Nam.

Để những sân khấu truyền thống sáng đèn
Để những sân khấu truyền thống sáng đèn

Ngoài các loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống, còn rất nhiều phương thức biểu diễn nghệ thuật khác mang đậm chất dân gian, được lưu truyền từ đời này sang đời khác cần được bảo tồn và phát huy. Đặc biệt, nhiều loại hình đã được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp.

Nhã nhạc cung đình Huế mang ý nghĩa ''âm nhạc tao nhã'', là việc trình diễn âm nhạc trong cung đình Việt Nam có từ thế kỷ XIII. Tại cung đình Huế dưới triều Nguyễn, các vị vua đã ban cho Nhã nhạc một vị trí đặc biệt là Nghệ thuật trình diễn âm nhạc chính thức của cung đình, là biểu tượng về quyền uy và sự trường thọ của triều đại.

Nhã nhạc được trình diễn thường niên trong các dịp triều hội, tế lễ hoặc các sự kiện trọng đại như lễ đăng quang, tang lễ hay việc nhà vua đón tiếp chính thức sứ thần hay các nghi lễ tôn nghiêm khác. Trong các thể loại âm nhạc từng được phát triển ở Việt Nam, chỉ có Nhã nhạc mang tầm quốc gia. Nhã nhạc cung đình Huế được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và Di sản văn hóa phi vật thể đại diện nhân loại vào ngày 7/11/2003.

Cồng, chiêng là nhạc cụ mang sức mạnh thiêng liêng, được sử dụng trong những nghi lễ quan trọng, gắn bó mật thiết với cuộc sống của người dân Tây Nguyên với không gian trải rộng trên các tỉnh thành: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng.

Để những sân khấu truyền thống sáng đèn

Sinh hoạt văn hóa cồng, chiêng như một phần không thể thiếu trong suốt vòng đời mỗi con người và trong hầu như tất cả các sự kiện quan trọng của cộng đồng thông qua các nghi lễ từ thổi tai cho trẻ sơ sinh, cưới xin, tiễn đưa người quá cố, lễ đâm trâu trong ngày bỏ mả cho đến nghi thức cúng máng nước, mừng lúa mới, đóng cửa kho, mừng nhà Rông… Ngày 25/11/2005, UNESCO đã chính thức công nhận Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là Kiệt tác truyền khẩu và Di sản văn hóa phi vật thể đại diện nhân loại.

Quan họ là một hình thức nghệ thuật hát đối đáp không nhạc đệm giữa nam và nữ để biểu lộ tâm tình, ca ngợi tình yêu chung thủy thông qua những câu hát mộc mạc, đằm thắm. Hình thức sinh hoạt này đã trở thành lề lối trong các hoạt động văn hóa, xã hội được cộng đồng lưu giữ, trao truyền qua nhiều thế hệ.

Những làn điệu dân ca của vùng Đồng bằng Bắc Bộ tập trung chủ yếu ở vùng Kinh Bắc nay là hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang, đã trở thành bản sắc của địa phương và lan tỏa thành không gian văn hóa nghệ thuật đặc thù. Dân ca Quan họ Bắc Ninh chính thức được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện nhân loại vào ngày 30/9/2009.

Ca trù hay còn có các tên gọi khác liên quan đến sự tồn tại và phát triển như hát cửa đình, hát nhà trò, hát cô đầu hay hát ả đào. Là loại hình âm nhạc thính phòng với sự kết hợp nhuần nhuyễn tới đỉnh cao của thi ca và âm nhạc, ca trù có vị trí đặc biệt trong kho tàng âm nhạc truyền thống của Việt Nam, gắn liền với lễ hội, phong tục, tín ngưỡng, văn chương, tư tưởng và triết lý sống của người Việt.

Ca trù còn là loại hình diễn xướng nghi lễ dân gian tổng hợp, những điệu múa đã tạo nên sự đặc sắc văn hóa, riêng biệt và là nhân tố quan trọng trong các nghi thức và trò diễn. Ngày 1/10/2009, Ca trù đã được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại.

Để những sân khấu truyền thống sáng đèn

Hát Xoan là nét sinh hoạt văn hóa nghệ thuật độc đáo của nhân dân Phú Thọ, là tiếng hát dâng thần linh, cầu chúc, khấn nguyện thần linh ban phúc cho dân làng bắt nguồn từ hình thức hát thờ các Vua Hùng. Đây là loại hình dân ca lễ nghi phong tục hát thờ thần, Thành hoàng với hình thức nghệ thuật âm nhạc và múa thường được biểu diễn vào dịp đầu Xuân.

Hát Xoan được ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại ngày 24/11/2011. Đến ngày 8/12/2017, Hát Xoan được UNESCO đưa ra khỏi danh sách trên để ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện nhân loại do sức sống mạnh mẽ cũng như các cam kết của Việt Nam trong việc bảo vệ nghệ thuật này không bị biến mất trong đời sống hiện đại.

Đờn ca Tài tử Nam Bộ xuất hiện hơn 100 năm qua, bắt nguồn từ nhạc lễ, Nhã nhạc, ca Huế và văn học dân gian; không ngừng được sáng tạo nhờ tính ngẫu hứng và sự biến hóa theo cảm xúc trên cơ sở của 20 bài bản tổ và 72 bài bản cổ do những người dân sáng tạo.

Đờn ca Tài tử phổ biến khắp 21 tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long và chính thức được ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện nhân loại vào ngày 5/12/2013.

Dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh; Nghệ thuật Bài Chòi đến từ các tỉnh miền Trung; Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái; Nghệ thuật Xòe Thái cũng đã đều được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện nhân loại.

Các loại hình nghệ thuật dân gian, sân khấu truyền thống của Việt Nam trong quá trình hình thành, phát triển đã không ngừng được tái tạo, phát huy và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng phương thức truyền miệng, truyền nghề là chủ yếu.

Để những sân khấu truyền thống sáng đèn

Đây chính là tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước của ông cha để lại; thể hiện lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động... Sự ghi danh của UNESCO với các loại hình nghệ thuật này đã khẳng định và làm sâu sắc thêm bản sắc văn hóa phong phú của dân tộc Việt Nam.

Để những sân khấu truyền thống sáng đèn

Thế giới đang vận động theo xu hướng hội nhập. Ngày nay, những sản phẩm công nghệ đã và đang tràn ngập ở khắp nơi trên thế giới, trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống vật chất và tinh thần của con người. Một mặt, công nghệ và cuộc sống hối hả đang làm xao lãng sự quan tâm của khán giả tới các loại hình nghệ thuật truyền thống.

Nhưng mặt khác, nếu không tận dụng thế mạnh của công nghệ trong việc quảng bá nghệ thuật truyền thống, cũng sẽ đồng nghĩa với việc tạo ra nhiều thách thức cho loại hình này trong việc thu hút sự quan tâm của cộng đồng khán giả.

Trước bối cảnh ấy, để các loại hình nghệ thuật dân gian, sân khấu truyền thống hoạt động hiệu quả, góp phần bảo tồn, quảng bá văn hóa và khẳng định thương hiệu văn hóa Việt Nam ra thế giới trong kỷ nguyên số, rất cần phải có những giải pháp tổng thể, phù hợp với thời đại và huy động được nhiều nguồn lực trong xã hội tham gia.

Đội ngũ những người hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp như tác giả kịch bản, tác giả chuyển thể, đạo diễn sân khấu, nhạc công, diễn viên cho tới những nghệ nhân thực hành và truyền nghề... dường như không còn mặn mà với các loại hình nghệ thuật dân gian, sân khấu truyền thống.

Sự theo đuổi các loại hình nghệ thuật giải trí hiện đại, đặc biệt là với những người trẻ tuổi đang tạo ra nhiều cơ hội hơn. Điều này dẫn đến thực trạng các loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống, nghệ thuật dân gian ngày càng thiếu hụt nguồn nhân lực.

Để những sân khấu truyền thống sáng đèn

Việc truyền nghề chưa được quan tâm đúng mức. Công tác phát triển nguồn nhân lực chưa được như kỳ vọng đã ảnh hưởng nhiều tới sức sáng tạo của các tổ chức hoạt động biểu diễn nghệ thuật, dẫn đến sự khó khăn trong quá trình dàn dựng, luyện tập và phổ biến các tác phẩm nghệ thuật.

Doanh thu từ các buổi biểu diễn kém, đời sống của người làm nghề ngày càng trở nên khó khăn. Việc trình diễn những loại hình nghệ thuật truyền thống cùng với những điệu múa, làn điệu dân ca… tái hiện qua những không gian văn hóa sinh hoạt mang tính dân gian dần thu nhỏ. Nhiều loại hình nghệ thuật biểu diễn có giá trị văn hóa được các thế hệ cha ông đã dày công vun đắp qua chiều dài lịch sử đang đứng trước nguy cơ mai một.

Nên chăng nghĩ về việc đổi mới hình thức tuyển sinh, phương pháp giảng dạy và nội dung đào tạo. Ngoài đội ngũ giáo viên giảng dạy tại các cơ sở giáo dục, cần mời các nghệ sĩ, nghệ nhân dân gian đã thành danh, có tâm huyết trong lĩnh vực nghệ thuật truyền thống tham gia giảng dạy và truyền nghề, tận dụng kinh nghiệm, khả năng chuyên môn của các nghệ sĩ lão thành, nâng cao chất lượng đào tạo, tạo điều kiện cho hoạt động thực hành biểu diễn nghệ thuật của các thế hệ người làm nghề biểu diễn kế cận.

Thứ hai là đổi mới chính sách về đào tạo nguồn nhân lực nghệ thuật dân gian, sân khấu truyền thống. Nghiên cứu bổ sung chính sách ưu đãi đối với học sinh, sinh viên các ngành, nghề chuyên sâu đặc thù lĩnh vực nghệ thuật và các bộ môn khó tuyển, cần bảo tồn. Học viên theo học các ngành nghệ thuật truyền thống, dân gian được hưởng các chính sách ưu đãi như miễn, giảm học phí; có chính sách tiền lương, phụ cấp ưu đãi thiết thực hơn đối với giáo viên, người hoạt động nghệ thuật truyền thống, nghệ nhân dân gian.

Để những sân khấu truyền thống sáng đèn

Thứ ba, phát triển thương hiệu quốc gia các loại hình nghệ thuật dân gian, sân khấu truyền thống của Việt Nam. Việc này dựa trên cơ sở xác định tính đặc trưng của mỗi loại hình, và phát huy những tiềm năng, giá trị đặc sắc của nghệ thuật truyền thống Việt Nam; vận dụng có hiệu quả các giá trị, tinh hoa và thành tựu mới của văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới; khuyến khích sáng tạo sản phẩm nghệ thuật; triển khai có trọng tâm, có trọng điểm phát triển ngành công nghiệp nghệ thuật biểu diễn, góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới.

Xây dựng và phát triển thương hiệu quốc gia các loại hình nghệ thuật dân gian, sân khấu truyền thống gắn với không gian văn hóa, theo tính chất, đặc thù từng vùng, miền, theo quy mô từng loại hình, có định hướng nhằm phát huy các giá trị văn hóa nghệ thuật biểu diễn truyền thống và hiện đại của Việt Nam.

Xây dựng bộ nhận diện thương hiệu và chuẩn hóa các giá trị làm nên thương hiệu. Chuẩn hóa và đăng ký bảo hộ nhãn hiệu (logo); biên tập nội dung giới thiệu đặc trưng, truyền thống lịch sử của tổ chức biểu diễn nghệ thuật; số hóa một số nội dung để giới thiệu hình ảnh, tiết mục, trích đoạn đặc sắc trên môi trường mạng.

Thứ tư, tăng cường các biện pháp truyền thông nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò, ý nghĩa, bản chất và giá trị văn hóa lâu đời của các loại hình nghệ thuật dân gian, sân khấu truyền thống của Việt Nam. Đưa nghệ thuật truyền thống đến tới các cơ sở giáo dục trên toàn quốc theo hình thức “sân khấu học đường”.

Để những sân khấu truyền thống sáng đèn

Thứ năm, đẩy mạnh quá trình xã hội hóa các hoạt động văn hóa nghệ thuật dân gian, sân khấu truyền thống, nhằm thu hút toàn xã hội, các thành phần kinh tế tham gia các hoạt động sáng tạo, cung cấp nguồn nhân lực và quảng bá, lan tỏa giá trị văn hóa truyền thống.

Thứ sáu, hoàn thiện thị trường biểu diễn nghệ thuật, khuyến khích xuất khẩu sản phẩm biểu diễn nghệ thuật dân gian, sân khấu truyền thống, góp phần quảng bá văn hóa, con người Việt Nam ra thế giới. Khuyến khích đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị biểu diễn, thiết bị kỹ thuật và công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm nghệ thuật. Tạo thuận lợi cho các tổ chức nghệ thuật thu hút các nguồn lực xã hội nhằm giữ gìn, bảo tồn, phục dựng và phát huy các loại hình nghệ thuật dân gian, sân khấu truyền thống.

Thứ bảy, mở rộng hợp tác, thực hiện đa dạng dưới các hình thức văn hóa đối ngoại, tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm nền văn hóa dân tộc, vừa giữ được bản sắc, vừa hội nhập quốc tế. Hỗ trợ công tác truyền thông, quảng bá nghệ thuật trong nước và xuất khẩu, giới thiệu các sản phẩm nghệ thuật biểu diễn ra nước ngoài.

Đặc biệt trong kỷ nguyên số, nhu cầu nghiên cứu, rà soát, đổi mới cơ chế, chính sách cho công nghiệp giải trí, thông tin truyền thông các sản phẩm văn hóa Việt Nam, nghệ thuật truyền thống và chủ động ứng dụng công nghệ vào biểu diễn nghệ thuật là không thể thiếu.

Chủ động xây dựng hệ sinh thái nghệ thuật biểu diễn số. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu dùng chung làm nền tảng cho các công cụ số về quản lý hoạt động nghệ thuật; xây dựng môi trường thực hành biểu diễn nghệ thuật thông minh trên nền tảng số; thông qua các tiện ích ứng dụng công nghệ; áp dụng công nghệ trong hoạt động truyền thông, quảng bá, dịch vụ bán vé tự động, đặt máy bán vé tự động, đặt chỗ trực tuyến, thanh toán trên môi trường mạng để phục vụ nhu cầu thưởng thức văn hóa, nghệ thuật và du lịch của nhân dân.

Thực tế, qua công tác tìm hiểu về các loại hình nghệ thuật dân gian, sân khấu truyền thống tại một số địa phương hiện cho thấy một số tín hiệu tích cực đáng mừng. Nhiều cá nhân và tổ chức hoạt động biểu diễn nghệ thuật trẻ đang nỗ lực nghiên cứu, tìm hiểu những giá trị trong từng loại hình nghệ thuật dân gian, sân khấu truyền thống, làm mới các sản phẩm của mình để giới thiệu tới đông đảo công chúng.

Sự quan tâm và kế thừa của giới trẻ đối với nghệ thuật dân gian, sân khấu truyền thống trong thời gian tới không chỉ phụ thuộc vào môi trường thích hợp mà còn phải có sự hỗ trợ và khuyến khích từ các tổ chức văn hóa, trường học, người làm nghề chuyên nghiệp và cộng đồng... Từ đó tạo ra cơ hội và không gian sáng tạo để thể hiện, khám phá những giá trị sâu sắc từ các loại hình nghệ thuật dân gian, sân khấu truyền thống của Việt Nam.

*Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả

Để những sân khấu truyền thống sáng đèn
Tổng Bí thư Tô Lâm tiếp Bộ trưởng Ngoại giao Lào

Tổng Bí thư Tô Lâm tiếp Bộ trưởng Ngoại giao Lào

Savills: Thị trường bất động sản đang bước vào chu kỳ mới

Savills: Thị trường bất động sản đang bước vào chu kỳ mới

Đề nghị Bộ Ngoại giao Lào tiếp tục làm cầu nối thúc đẩy hợp tác hai nước

Đề nghị Bộ Ngoại giao Lào tiếp tục làm cầu nối thúc đẩy hợp tác hai nước

VinFast chính thức mở bán VF 3 tại Indonesia

VinFast chính thức mở bán VF 3 tại Indonesia

Thúc đẩy hợp tác Việt Nam - Brazil trong lĩnh vực nông nghiệp

Thúc đẩy hợp tác Việt Nam - Brazil trong lĩnh vực nông nghiệp

Thủ tướng Ấn Độ bắt đầu chuyến thăm 2 ngày tới Mỹ

Thủ tướng Ấn Độ bắt đầu chuyến thăm 2 ngày tới Mỹ

Set hoa kèm Baby Three

Set hoa kèm Baby Three 'hút khách' dịp Valentine

Đề xuất gần 9.300 tỷ đồng nâng cấp 3 tuyến quốc lộ tại ĐBSCL

Đề xuất gần 9.300 tỷ đồng nâng cấp 3 tuyến quốc lộ tại ĐBSCL

Cung ứng đủ vật liệu cho các công trình trọng điểm

Cung ứng đủ vật liệu cho các công trình trọng điểm

Trình Quốc hội chủ trương đầu tư tuyến đường sắt hơn 8,3 tỷ USD

Trình Quốc hội chủ trương đầu tư tuyến đường sắt hơn 8,3 tỷ USD

Lạc quan về năm 2025, HDBank đặt mục tiêu lợi nhuận tăng 25%

Lạc quan về năm 2025, HDBank đặt mục tiêu lợi nhuận tăng 25%

Cổ phiếu khoáng sản đua nhau tím trần, MSR tăng 70% sau nửa tháng

Cổ phiếu khoáng sản đua nhau tím trần, MSR tăng 70% sau nửa tháng

Chỉ số xuất nhập khẩu Việt Nam - ASEAN tháng 1/2025

Chỉ số xuất nhập khẩu Việt Nam - ASEAN tháng 1/2025

SHB chốt quyền trả cổ tức,

SHB chốt quyền trả cổ tức, 'phát lộc' đầu năm tới cổ đông

Xăng RON 95 quay đầu tăng, vượt mốc 21.000 đồng/lít

Xăng RON 95 quay đầu tăng, vượt mốc 21.000 đồng/lít

Nam Long muốn chào bán 100 triệu cổ phiếu, dự thu 2.500 tỷ đồng

Nam Long muốn chào bán 100 triệu cổ phiếu, dự thu 2.500 tỷ đồng

Chủ tịch Quốc hội nêu lý do chưa thể bỏ HĐND cấp xã

Chủ tịch Quốc hội nêu lý do chưa thể bỏ HĐND cấp xã

Những nhóm ngành ABS khuyến nghị cho kịch bản TTCK tháng 2

Những nhóm ngành ABS khuyến nghị cho kịch bản TTCK tháng 2

Ông Trump: Hãy nhìn xem, Bộ Giáo dục Mỹ là một trò lừa đảo

Ông Trump: Hãy nhìn xem, Bộ Giáo dục Mỹ là một trò lừa đảo

Khai hội mùa xuân Côn Sơn - Kiếp Bạc, kỷ niệm 60 năm ngày Bác Hồ về thăm Côn Sơn

Khai hội mùa xuân Côn Sơn - Kiếp Bạc, kỷ niệm 60 năm ngày Bác Hồ về thăm Côn Sơn