![]() |
Trong bối cảnh Việt Nam quyết liệt xúc tiến các chương trình mục tiêu quốc gia hướng tới giảm nghèo bền vững, những câu hỏi về 'vai trò của chính sách', 'mức độ bền vững' và mục tiêu nâng cao 'năng lực chống chịu của người nghèo', đang được đề cập tại nhiều chương trình nghị sự. Mekong ASEAN trao đổi với bà Vũ Thị Quỳnh Hoa, Giám đốc quốc gia Oxfam tại Việt Nam, về những thành tựu của giảm nghèo đa chiều và các khuyến nghị chính sách cho giai đoạn 2025–2030. |
![]() |
Sau hơn một thập niên duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định và mở rộng các dịch vụ xã hội cơ bản, Việt Nam tiếp tục được xem là một trong những quốc gia có thành tựu giảm nghèo ấn tượng nhất trong khu vực. Từ chỗ tập trung vào chuẩn nghèo thu nhập, Việt Nam đã chuyển sang đo lường nghèo đa chiều, một cách tiếp cận giúp phản ánh đầy đủ hơn mức độ tiếp cận giáo dục, y tế, hạ tầng, việc làm và các dịch vụ thiết yếu.
Khuyến nghị chính sách tới đây, theo đại diện Oxfam, cần quan tâm đến khoảng cách giữa các nhóm dân cư, vùng miền và giới tính – một xu hướng đòi hỏi chính sách phải tinh chỉnh và phản ứng nhanh hơn trong giai đoạn tới.
Mekong ASEAN: Từ góc độ của Oxfam, bà nhìn nhận thế nào về bức tranh giảm nghèo của Việt Nam trong những năm gần đây?
Bà Vũ Thị Quỳnh Hoa: Giảm nghèo tại Việt Nam trong thời gian qua đã chuyển mạnh từ cách tiếp cận dựa trên thu nhập sang giảm nghèo đa chiều. Khi Việt Nam tiến gần hơn tới ngưỡng thu nhập trung bình cao, các thách thức cả cũ và mới đan xen theo vùng miền, dân tộc và giới.
Năm 2025, dù chịu tác động từ biến động toàn cầu, Việt Nam vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng thuộc nhóm cao, GDP dự kiến tăng khoảng 8%, quy mô nền kinh tế đạt 510 tỷ USD, GDP bình quân đầu người khoảng 5.000 USD. Đây là nền tảng để Việt Nam tiến gần hơn tới ngưỡng quốc gia có thu nhập trung bình cao.
Việt Nam cũng là một trong những quốc gia điển hình về thành công trong giảm nghèo. Từ việc hoàn thành Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ về xóa nghèo cùng cực sớm 10 năm, đến việc là quốc gia đầu tiên ở châu Á áp dụng chuẩn nghèo đa chiều năm 2015, Việt Nam đã xây dựng một khung chính sách toàn diện và bao trùm, nâng cao khả năng tiếp cận giáo dục, y tế, hạ tầng cơ sở cho các nhóm dễ bị tổn thương. Đến năm 2025, mục tiêu xóa nhà tạm, nhà dột nát đã được hoàn thành sớm 5 năm 4 tháng.
Việt Nam luôn được đánh giá là một trong những nước dù thu nhập còn thấp nhưng luôn có cam kết giảm nghèo nhanh và bền vững, với chỉ số Phát triển Con người (HDI) cao hơn so với mức thu nhập trung bình. Chỉ số hạnh phúc của người dân Việt Nam năm 2025 cũng tăng lên vị trí 46, so với vị trí 83 năm 2020.
Từ các nghiên cứu và theo dõi về xóa đói giảm nghèo tại Việt Nam, Oxfam nhận thấy trọng tâm giảm nghèo đã chuyển từ việc chỉ “xóa đói giảm nghèo” sang đảm bảo tính bền vững và bao trùm, thu hẹp dần khoảng cách giữa các nhóm dân cư và vùng miền, đặc biệt đối với những nhóm cư dân dễ bị tổn thương, đồng thời nâng cao tính thích ứng, khả năng ứng phó với các thách thức mới trong bối cảnh Việt Nam tiến gần ngưỡng thu nhập trung bình cao.
Mặc dù tỷ lệ nghèo theo thu nhập đã giảm từ hơn 60% trong thập niên 1980 xuống còn 1,3% (theo chuẩn nghèo đa chiều) năm 2025, con số này vẫn tương ứng với khoảng 1,25 triệu hộ nghèo và cận nghèo. Vào năm 2023, trẻ em, người dân tộc thiểu số, cư dân nông thôn (4,8% năm 2023), miền núi phía Bắc (10,7%) vẫn có tỷ lệ nghèo đa chiều cao hơn đáng kể so với khu vực thành thị (1,2%).
Trong lĩnh vực bình đẳng giới, Việt Nam đã đạt nhiều tiến bộ trong việc nâng cao tỷ lệ nữ tham gia chính trị và thị trường lao động, cũng như thu hẹp chênh lệch thu nhập. Tuy vậy, phụ nữ vẫn đối mặt với nguy cơ nghèo hóa cao hơn do việc làm bấp bênh trong khu vực phi chính thức – nơi có nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số và lao động nữ di cư, gánh nặng chăm sóc không được trả công và định kiến giới trong gia đình. Mặc dù đóng góp quan trọng cho kinh tế gia đình và nền kinh tế nói chung, phụ nữ trong khu vực phi chính thức vẫn bị hạn chế tiếp cận an sinh xã hội và an toàn lao động, với mức thu nhập bấp bênh, rủi ro sức khỏe cao và chi phí y tế tự chi trả lớn.
Sự biến động của thị trường lao động trong bối cảnh công nghệ thay đổi và khoảng cách số ngày càng gia tăng, cùng với định kiến giới và rào cản văn hóa và ngôn ngữ đối với các nhóm dễ bị tổn thương sẽ là thách thức trong việc ngăn ngừa tình trạng tái nghèo và giảm khoảng cách bất bình đẳng.
![]() |
Mekong ASEAN: Theo bà, những thách thức này nên được nhìn nhận thế nào?
Bà Vũ Thị Quỳnh Hoa: Theo góc nhìn của Oxfam, giảm nghèo bền vững là một tiến trình dài hạn mà Việt Nam đã và đang đạt được nhiều kết quả rất đáng ghi nhận. Các nghiên cứu tại nhiều quốc gia khác cho thấy Việt Nam cần chú ý tới nguy cơ tái nghèo của các nhóm cư dân trước các thách thức và rủi ro mới, và tình trạng gia tăng của bất bình đẳng đa chiều mặc dù kinh tế có thể vẫn tăng trưởng đều đặn.
Trong ba thập kỷ qua, mối quan hệ giữa tăng trưởng GDP bình quân đầu người và giảm nghèo ở Việt Nam nhìn chung là tích cực. GDP bình quân đầu người tăng từ 1.052 USD năm 2008 lên 4.282 USD năm 2023, trong khi tỷ lệ nghèo giảm từ 13,4% xuống còn 3,4% (số liệu năm 2024). Tuy vậy, khoảng cách thu nhập giữa nhóm 20% giàu nhất và 20% nghèo nhất đã tăng từ 6,5 lần năm 1994 lên 10,2 lần năm 2019, dù năm 2023 con số này có giảm nhẹ còn 7,5 lần (số liệu năm 2024). Nhóm 20% giàu nhất chiếm tới 46% tổng thu nhập quốc gia, trong khi nhóm 20% nghèo nhất chỉ chiếm 6,2%.
Số liệu năm 2024 cũng cho thấy 40% người thuộc nhóm nghèo đa chiều có nguy cơ tái nghèo nếu gặp cú sốc thu nhập hoặc chi phí y tế. Sự phân hóa giàu–nghèo giữa các nhóm dân cư, giữa vùng miền nếu tiếp tục duy trì, có thể làm giảm tính bao trùm và bền vững của tăng trưởng.
Các nghiên cứu trên toàn cầu và phân tích của Oxfam quốc tế cho thấy các nguyên nhân sâu xa của bất bình đẳng gồm cơ chế tái phân bổ thu nhập và tài sản thông qua thuế lũy tiến chưa công bằng; hạn chế trong chi tiêu cho dịch vụ công và đảm bảo tiếp cận công bằng đối với dịch vụ công chất lượng; thiếu các chính sách bình đẳng giới hiệu quả, đẩy mạnh sự tham gia của người dân trong tiến trình hoạch định và giám sát chính sách.
Mekong ASEAN: Oxfam đánh giá ra sao về hiệu quả các chính sách giảm nghèo hiện hành?
Bà Vũ Thị Quỳnh Hoa: Oxfam đánh giá một điểm quan trọng và khác biệt trong nỗ lực giảm nghèo của Việt Nam đến từ một khung chính sách toàn diện, hướng đến nâng cao năng lực nội sinh của người dân, đồng thời coi sự tham gia của cộng đồng và bình đẳng giới là các nền tảng quan trọng cho giảm nghèo bền vững.
Hệ thống chính sách giảm nghèo của Việt Nam được thiết kế theo hướng toàn diện và linh hoạt, gồm các chính sách chung và chính sách đặc thù cho nhóm yếu thế, vùng dân tộc thiểu số, vùng khó khăn. Các hỗ trợ cụ thể bao gồm thẻ bảo hiểm y tế, miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập, tiền điện, trợ giúp pháp lý, đào tạo nghề và kết nối việc làm đối với hộ nghèo và cận nghèo. Việt Nam cũng từng bước giảm dần các chính sách hỗ trợ không điều kiện, chuyển sang hỗ trợ có điều kiện nhằm khuyến khích tính tự chủ và giảm sự lệ thuộc vào trợ cấp.
Chính sách giảm nghèo quốc gia cũng khuyến khích sự tham gia của người dân, các tổ chức xã hội và doanh nghiệp, dựa trên đặc thù văn hóa – xã hội, các thiết chế cộng đồng và điều kiện kinh tế – sinh thái địa phương. Cách tiếp cận “lấy người nghèo làm trung tâm” của Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016–2020 và 2021–2025 đã chuyển trọng tâm từ giảm nghèo theo chiều rộng sang chiều sâu, thúc đẩy các mô hình phát triển sinh kế, khởi nghiệp nông thôn, và kinh doanh bao trùm, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Các phong trào như “Cả nước chung tay vì người nghèo – Không để ai bị bỏ lại phía sau”, hay các đợt quyên góp của Mặt trận Tổ quốc khi thiên tai xảy ra, đã tận dụng được vốn xã hội và văn hóa tương thân tương ái của Việt Nam, góp phần lan tỏa tinh thần tự lực, tự cường, đồng thời huy động nguồn lực xã hội một cách bền vững và nhanh chóng. Bên cạnh vai trò định hướng của ngân sách Nhà nước, việc huy động nguồn lực và ý tưởng từ địa phương, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội đã trở thành động lực quan trọng đóng góp vào tính bền vững của các chương trình giảm nghèo.
Về bình đẳng giới, Chính phủ Việt Nam xác định đây là một mục tiêu phát triển trọng tâm gắn với giảm nghèo bền vững và tăng trưởng bao trùm. Các chương trình mục tiêu quốc gia đã thể hiện mức độ nhạy cảm giới, ưu tiên hỗ trợ hộ nghèo do phụ nữ làm chủ, phụ nữ dân tộc thiểu số và trẻ em gái. Nhiều chính sách đã giúp phụ nữ tiếp cận tốt hơn các dịch vụ công và nguồn lực kinh tế, như tín dụng ưu đãi, đào tạo nghề, chuyển giao công nghệ, bảo hiểm y tế, miễn giảm học phí, và các mô hình sản xuất do phụ nữ làm chủ. Các kết quả tích cực được phản ánh qua cải thiện các chỉ số bình đẳng giới như GDI, GEM và GII trong giai đoạn 2020–2024.
Tiếp cận lồng ghép bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ do đó không chỉ giúp giảm nghèo hiệu quả hơn, mà còn tăng cường tính bền vững liên thế hệ và khả năng chống chịu của cộng đồng trước các biến động kinh tế, xã hội và môi trường.
![]() |
Mekong ASEAN: Từ kinh nghiệm thực tiễn, yếu tố nào giúp một mô hình giảm nghèo ở cấp cộng đồng duy trì được tính bền vững, tránh tình trạng tái nghèo?
Bà Vũ Thị Quỳnh Hoa: Những quan sát của Oxfam tại Việt Nam từ đầu những năm 1990 đến nay cho thấy các thay đổi trong cách thức thiết kế và triển khai mô hình giảm nghèo ở cấp cộng đồng đã phản ánh tiến trình chuyển đổi trong ban hành và thực hiện chính sách phát triển của Việt Nam.
Qua quá trình hợp tác, nghiên cứu và trao đổi với các cơ quan Nhà nước, viện nghiên cứu, tổ chức xã hội và tổ chức cộng đồng tại Việt Nam, Oxfam nhận định có ba yếu tố then chốt quyết định sự thành công và bền vững của các chương trình, chính sách giảm nghèo cấp cộng đồng.
Trao quyền cho cộng đồng. Bên cạnh các hoạt động tham vấn lấy ý kiến của cộng đồng, các mô hình thành công còn tạo cơ chế để người dân, đặc biệt là phụ nữ và nhóm yếu thế, tham gia một cách tích cực vào quá trình thiết kế, thực hiện và giám sát các sáng kiến giảm nghèo nhằm nâng cao tính trách nhiệm của cộng đồng với sự phát triển của địa phương.
Đa dạng hóa sinh kế gắn với thị trường và thích ứng với biến đổi khí hậu và các cú sốc. Các mô hình thành công thường hướng đến hỗ trợ chuyển đổi sinh kế từ sản xuất truyền thống sang mô hình có giá trị gia tăng, nâng cao tiếp cận thị trường, phát huy tri thức, văn hóa địa phương để tạo thu nhập bền vững, và tăng cường năng lực chống chịu với rủi ro thiên tai cũng như các cú sốc khác như dịch bệnh.
Sự liên kết giữa mô hình địa phương với các chính sách và dịch vụ công để đảm bảo hỗ trợ lâu dài. Các mô hình giảm nghèo thành công được tích hợp vào chương trình mục tiêu quốc gia và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội địa phương, có ngân sách duy trì và kết nối với hệ thống an sinh xã hội, tín dụng ưu đãi, đào tạo nghề, đồng thời song hành với các thay đổi trong chính sách vĩ mô, nhằm nâng cao chất lượng và khả năng tiếp cận các dịch vụ công phổ quát như giáo dục và y tế cho toàn dân.
Những yếu tố này giúp mô hình không chỉ tồn tại trong thời gian triển khai mà trở thành một phần của chiến lược phát triển bao trùm và bền vững tại các cộng đồng.
![]() |
Mekong ASEAN: Trong bối cảnh chuyển đổi xanh và chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ, Oxfam có lo ngại gì về nguy cơ các nhóm yếu thế bị “bỏ lại phía sau”?
Bà Vũ Thị Quỳnh Hoa: Chuyển đổi xanh và chuyển đổi số là xu thế tất yếu. Oxfam ghi nhận Việt Nam đã có những bước đi chủ động, thể hiện lựa chọn phát triển bền vững, không đánh đổi môi trường và con người để lấy tăng trưởng kinh tế. Điều này thể hiện qua cam kết thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững, cam kết Net Zero tại COP26, Chiến lược Tăng trưởng Xanh giai đoạn II cùng sự tham gia tích cực vào nhiều sáng kiến quốc tế về giảm nghèo và bảo vệ môi trường.
Đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, quá trình chuyển đổi yêu cầu tính toán kỹ lưỡng giữa chi phí và cơ hội, không chỉ cho hiện tại mà cả các thế hệ tương lai. Thách thức lớn nằm ở sự chênh lệch giữa thành thị – nông thôn, giữa các vùng miền và nhóm dân cư, cũng như sự khác biệt trong năng lực giữa các loại hình doanh nghiệp.
Kinh nghiệm từ nhiều quốc gia cho thấy ngay cả khi nguồn lực dồi dào, vẫn có nguy cơ phát sinh những bất bình đẳng mới trong quá trình số hóa và xanh hóa, đặc biệt đối với người cao tuổi, người khuyết tật, lao động nhập cư hay những ngành nghề truyền thống. Nếu quá trình chuyển đổi không song hành với các chính sách hỗ trợ phù hợp, các nhóm yếu thế có thể gặp khó khăn do hạn chế tiếp cận thông tin, khoảng cách số bị nới rộng, hoặc kỹ năng nghề không còn phù hợp.
Tại Việt Nam, những tác động này có thể ảnh hưởng mạnh tới các hộ thu nhập thấp, phụ nữ, cộng đồng dân tộc thiểu số, lao động phi chính thức hay người cao tuổi thiếu kỹ năng số. Rủi ro có thể đến từ việc mất việc làm, khó tiếp cận hạ tầng và dịch vụ số, hoặc chi phí chuyển đổi vượt quá khả năng chi trả.
Một nhóm khác cũng cần được quan tâm là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, hợp tác xã, nông dân và ngư dân. Do hạn chế về năng lực, vốn và công nghệ, họ có thể gặp khó khăn trong đáp ứng các tiêu chuẩn xanh và yêu cầu số hóa. Nếu không có lộ trình hỗ trợ phù hợp để nâng cao năng lực và tiếp cận tài chính, nhóm này sẽ đối mặt nguy cơ tụt lại phía sau trong quá trình chuyển đổi.
Từ các kinh nghiệm phát triển trong nhiều thập kỷ qua, Việt Nam hoàn toàn có thể thúc đẩy một quá trình chuyển đổi bao trùm và bền vững. Điều quan trọng là tiếp tục lấy con người làm trung tâm; phản ánh nhu cầu và góc nhìn của phụ nữ, người dân tộc thiểu số, người khuyết tật, lao động phi chính thức và các nhóm cư dân dễ bị tổn thương; đồng thời mở rộng cơ chế tham vấn cộng đồng để bảo đảm các chính sách vừa phù hợp thực tiễn, vừa mang lại hiệu quả lâu dài.
![]() |
| Một số dự án của Oxfam đang triển khai tại Việt Nam. Ảnh: Oxfam Việt Nam |
Mekong ASEAN: Oxfam hiện đang đồng hành với các cơ quan Việt Nam trong những lĩnh vực nào để hỗ trợ giảm nghèo đa chiều và thúc đẩy phát triển bao trùm?
Bà Vũ Thị Quỳnh Hoa: Tăng trưởng bền vững đi cùng phát triển bao trùm luôn là mục tiêu xuyên suốt trong các chương trình của Oxfam tại Việt Nam. Từ những năm 1990, chúng tôi đã hợp tác với Chính phủ, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp và cộng đồng thông qua nhiều chương trình, dự án và hoạt động chia sẻ tri thức quốc tế.
Trong lĩnh vực nông nghiệp – trụ cột của xuất khẩu và an ninh lương thực – Oxfam thúc đẩy sản xuất lúa bền vững, giảm phát thải và góp phần triển khai Đề án 1 triệu ha lúa phát thải thấp. Ở lĩnh vực lâm nghiệp, chúng tôi hỗ trợ phát triển mô hình quản lý rừng bền vững theo tiêu chuẩn FSC và thúc đẩy chi trả dịch vụ môi trường rừng (PFES). Trong thủy sản, Oxfam đồng hành cùng các mô hình nuôi tôm, nghêu theo tiêu chuẩn ASC, khuyến khích sử dụng năng lượng tiết kiệm và năng lượng tái tạo trong chế biến.
Đối với lĩnh vực năng lượng, Oxfam đóng góp vào tiến trình chuyển dịch năng lượng công bằng thông qua các sáng kiến nâng cao nhận thức của cộng đồng và doanh nghiệp về tiết kiệm năng lượng và sử dụng năng lượng tái tạo.
Trong lĩnh vực đầu tư có trách nhiệm và dịch chuyển công bằng, Oxfam thúc đẩy áp dụng tiêu chuẩn Môi trường – Xã hội – Quản trị (ESG) trong nhiều ngành kinh tế. Ví dụ, hỗ trợ ngân hàng thương mại tích hợp ESG vào chính sách tín dụng; hay trong nông – lâm nghiệp, phát triển mô hình trồng và xuất khẩu cao su bền vững, du lịch sinh thái gắn với tri thức bản địa.
Bên cạnh đó, Oxfam cùng các đối tác thúc đẩy lồng ghép bình đẳng giới, đổi mới sáng tạo, mở rộng mô hình kinh tế xanh do phụ nữ làm chủ, tăng cơ hội đào tạo nghề cho nhóm dễ bị tổn thương, và phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp thích ứng biến đổi khí hậu.
Chúng tôi cũng hợp tác với các cơ quan Nhà nước, viện nghiên cứu và cơ quan truyền thông để đồng kiến tạo, chia sẻ tri thức và nhân rộng mô hình hiệu quả, hướng tới mục tiêu giảm nghèo đa chiều và phát triển bao trùm, bền vững.
Mekong ASEAN: Theo bà, để hiện thực hóa mục tiêu đến năm 2030 “không ai bị bỏ lại phía sau”, đâu là khuyến nghị quan trọng nhất trong bảo đảm giảm nghèo bền vững?
Bà Vũ Thị Quỳnh Hoa: Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu quan trọng trong gần bốn thập kỷ phát triển kinh tế – xã hội, nhưng quá trình tiến tới nhóm nước thu nhập trung bình cao và cao sẽ xuất hiện những thách thức mới. Sự mở rộng tầng lớp trung lưu, sự gia tăng số người siêu giàu cùng những vấn đề liên quan đến bất bình đẳng, già hóa dân số, biến đổi khí hậu và biến động địa chính trị đều sẽ tác động sâu rộng tới mục tiêu giảm nghèo bền vững.
Chính phủ đã xác định bốn trụ cột trọng tâm của “Kỷ nguyên vươn mình”, tạo khung định hướng cho mục tiêu "không để ai bị bỏ lại phía sau" vào năm 2030, và tầm nhìn đến năm 2045 trở thành quốc gia phát triển, hiện đại. Từ cách tiếp cận này, tôi cho rằng có ba nguyên tắc then chốt.
Thứ nhất, nhận diện và xử lý hiệu quả các dạng bất bình đẳng đan xen – giới, dân tộc, vùng miền, hay khuyết tật. Những dạng bất bình đẳng này không tồn tại tách biệt mà chồng lớp lên nhau, vì thế cần một cách tiếp cận tổng thể thay vì giải quyết theo từng nhóm riêng rẽ. Khi tiếng nói và nhu cầu của nhóm dễ bị tổn thương được đặt ở trung tâm, hiệu quả của các dịch vụ y tế, giáo dục, an sinh xã hội và mô hình sinh kế sẽ được nâng cao đáng kể.
Thứ hai, tăng cường sự tham gia của người dân và cộng đồng vào quá trình giảm nghèo. Đầu tư cho con người chính là chìa khóa phá vỡ vòng nghèo đói liên thế hệ. Khi cộng đồng trở thành chủ thể, họ phát huy tốt nội lực, sáng tạo giải pháp tại chỗ và tăng khả năng chống chịu trước những rủi ro phức tạp, chưa từng có tiền lệ.
Thứ ba, coi chuyển đổi xanh và chuyển đổi số là động lực thúc đẩy phát triển bao trùm. Bên cạnh hỗ trợ tăng trưởng, chính sách cần bảo đảm nhóm yếu thế được tiếp cận giáo dục và đào tạo nghề chất lượng, nâng cao kỹ năng số, cải thiện năng suất lao động. Điều này sẽ giúp quá trình chuyển đổi diễn ra bền vững, đồng thời ngăn nguy cơ bỏ lại phía sau bất kỳ nhóm dân cư nào.
Mekong ASEAN: Xin cảm ơn những trao đổi của bà!