Luật hóa Nghị quyết 42 về xử lý nợ xấu: 'Thời gian không còn nhiều'

Luật hóa Nghị quyết 42 về xử lý nợ xấu: 'Thời gian không còn nhiều'

NGHỊ QUYẾT 42 Việt nAM
19:25 - 19/02/2022
Trong hội thảo “Cần Luật hoá Nghị quyết 42 để giải bài toán xử lý nợ xấu ngân hàng” sáng 19/2, các chuyên gia đều nhấn mạnh đến tính cấp bách của việc luật hóa Nghị quyết này, giúp khơi thông nguồn vốn phục vụ cho việc phục hồi và phát triển kinh tế.

Ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư kí Hiệp hội Ngân hàng cho biết tại hội thảo, trải qua 5 năm thí điểm, các giải pháp của Nghị quyết 42 đã tạo ra những chuyển biến tích cực trong công tác xử lý nợ xấu và góp phần không nhỏ vào kết quả công tác cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng.

Cụ thể, tính đến cuối năm 2021, toàn hệ thống tổ chức tín dụng đã xử lý được trên 1,3 triệu tỷ đồng nợ xấu; trong đó, giai đoạn 2012-2015 xử lý được 493,1 nghìn tỷ đồng; giai đoạn 2016-2021 xử lý được trên 800 nghìn tỷ đồng.

Tổng nợ xấu được xác định theo Nghị quyết số 42 của toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã xử lý được khoảng 368,9 nghìn tỷ đồng không bao gồm nợ xấu xử lý bằng sử dụng dự phòng rủi ro. Số nợ xấu được xác định là được xử lý thu hồi trong giai đoạn từ ngày 15/8/2017 đến cuối năm 2021, đạt trung bình khoảng 6,92 nghìn tỷ đồng/tháng, cao hơn 3,94 nghìn tỷ đồng/tháng so với giai đoạn trước khi có Nghị quyết số 42 (giai đoạn năm 2012 - 2017). Tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống tổ chức tín dụng trong giai đoạn 2016-2021 được duy trì dưới mức 3%.

Tuy nhiên, trình bày tại hội thảo, ông Phan Thanh Hải, Phó Tổng giám đốc BIDV cho hay, trong quá trình triển khai Nghị quyết 42, ngân hàng cũng vướng phải không ít khó khăn trong quá trình xử lý nợ xấu do tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19, do những bất cập trong thi hành án, nhất là khó khăn trong thẩm định giá khoản nợ và xử lý tài sản bảo đảm là quyền khai thác khoáng sản.

Cụ thể, Nghị quyết chưa quy định chế tài xử lý hoặc cơ chế, cách thức tiến hành cưỡng chế trong trường hợp bên bảo đảm, bên giữ tài sản không hợp tác. Do đó, khi thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm trên thực tế, tổ chức tín dụng gần như phụ thuộc vào sự phối hợp của bên bảo đảm.

Thêm nữa, ngoài việc là nhà ở hoặc công trình gắn liền với đất như nhà xưởng, nhà kho... thì tài sản đảm bảo còn có thể là những tài sản khác như vật dụng, đồ đạc, thiết bị, dụng cụ, vật tư,... Nhưng pháp luật chưa quy định về trình tự, thủ tục thông báo, cưỡng chế tháo dỡ, di dời, bảo quản, xử lý trong khi tổ chức tín dụng và cơ quan có thẩm quyền phải thực hiện cưỡng chế đối với các loại tài sản này.

Cùng chung quan điểm, Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI, Trọng tài viên Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam cho biết, vấn đề then chốt nhất mà Nghị quyết 42 mang lại là tác động đến nhận thức của xã hội và các cơ quan chức năng. Đặc biệt là ý thức về nghĩa vụ trả nợ của người vay cũng như trách nhiệm trả nợ thay, xử lý tài sản thế chấp của người thứ 3 bảo đảm nghĩa vụ trả nợ của người vay.

Tuy nhiên, việc trì hoãn nghĩa vụ trả nợ và xử lý tài sản bảo đảm của khách hàng vay và người có tài sản thế chấp không còn có lợi như trước đây mà thậm chí trở thành bất lợi hơn.

Còn theo TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho thấy cuối năm 2021 tỷ lệ nợ xấu nội bảng là 1,9%, tăng 0,21 điểm % so với cuối năm 2020. Nếu tính thêm nợ bán cho Công ty Quản lý tài sản (VAMC) thì tỷ lệ này là 3,9%.

Tỷ lệ nợ xấu gộp - bao gồm nợ xấu nội bảng, nợ xấu bán cho VAMC chưa được xử lý và nợ xấu tiềm ẩn từ các khoản cơ cấu lại tăng mạnh lên mức 7,31% cuối năm 2021 từ mức 5,1% cuối năm 2020. Con số này gần tương đương với cuối năm 2017 (7,4%) - cũng là năm mà Nghị quyết 42 bắt đầu có hiệu lực. Dịch COVID-19 đã phá hủy nhiều thành quả tái cơ cấu ngân hàng, xử lý nợ xấu thời gian qua.

Nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng gia tăng là điều đã được dự báo trước khi đại dịch COVID-19 bùng phát. Báo cáo tài chính năm 2021 mới được các ngân hàng công bố, nợ xấu có xu hướng gia tăng rõ rệt tại một số ngân hàng như: VPBank tăng 60% so với năm 2020, Vietinbank là 49%, VIB 58%, HDB 43%…

Bình quân số dư nợ xấu ở 28 ngân hàng thương mại niêm yết và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank) tăng 17,3% so với năm 2020.

Theo ông Cấn Văn Lực, mặc dù nửa đầu năm 2022, tình hình nợ xấu sẽ vẫn chưa có nhiều áp lực do Nghị quyết 42 vẫn còn hiệu lực, đồng thời ngân hàng vẫn được tiếp tục cơ cấu nợ cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi Covid 19.

Tuy nhiên, đến nửa cuối năm 2022, các vấn đề về khung pháp lý có thể xoay chuyển theo hướng không có lợi cho vấn đề xử lý nợ xấu của toàn ngành ngân hàng. Cụ thể, Thông tư 14/2021/TT-NHNN về cơ cấu nợ của NHNN sẽ chỉ có hiệu lực tới 30/6/2022.

Nghị quyết 42 cũng sẽ hết hiệu lực từ 15/8/2022. Trong trường hợp Nghị quyết 42 không được gia hạn hoặc luật hóa sẽ gây ra việc thiếu hụt các cơ chế xử lý hiệu quả nợ xấu.

“Khi đó, tiến độ cũng như hiệu quả xử lý nợ xấu của hệ thống TCTD sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực, gây ra tình trạng nợ xấu cũ chưa xử lý tiếp tục tồn đọng, quá trình xử lý nợ xấu mới phát sinh từ đại dịch sẽ kéo dài hoặc không thể giải quyết được, gây bất ổn cho hệ thống các TCTD nói riêng và toàn nền kinh tế nói chung”, TS. Cấn Văn Lực cảnh báo.

TRIỂN KHAI NHANH, ĐỀ XUẤT ĐÚNG

"Thời gian để đề xuất luật hóa Nghị quyết 42 là không còn nhiều cần có sự chuẩn bị tích cực, lộ trình rõ ràng, đề xuất đúng đắn", TS. Cấn Văn Lực nhấn mạnh.

Cũng theo đề xuất của TS. Cấn Văn Lực, hướng luật hóa Nghị quyết 42 có thể được tiến hành theo lộ trình rõ ràng gồm hai bước. Bước một là, có thể gia hạn, điều chỉnh, cập nhật phù hợp Nghị quyết 42 với thời gian khoảng 3 năm để có thêm thời gian rà soát, chuẩn bị cho dự thảo luật, cũng như kịp thời tháo gỡ những vướng mắc nêu trên. Bước hai là, xây dựng Luật xử lý nợ xấu theo hướng phù hợp với thị trường và thông lệ quốc tế hơn.

Về phần mình, Luật sư Trương Thanh Đức, Công ty Luật ANVI cũng cho rằng, Nghị quyết số 42 đã sắp hết hiệu lực, thời hạn thực hiện chỉ còn 6 tháng, chính vì thế cần nhanh chóng hoàn thiện chính sách xử lý nợ xấu theo hướng quy định rõ ràng hơn, cụ thể hơn, hợp lý hơn, khả thi hơn và hợp lý nhất là nâng lên thành luật.

Qua đó bảo đảm việc xử lý kịp thời, có hiệu quả nợ xấu của ngành Ngân hàng nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung. Trường hợp không kịp ban hành hoặc không ban hành Luật, thì cần tiếp tục duy trì hiệu lực của Nghị quyết này.

TẠO SỰ ĐỒNG THUẬN GIỮA CÁC BAN NGÀNH

TS. Cấn Văn Lực cũng cho rằng, việc đề xuất sửa đổi Nghị quyết 42 phải khớp với "một luật sửa chín luật" Quốc hội vừa thông qua để đạt được sự nhất quán, đồng bộ. Trong năm 2022-2023 sẽ có hàng loạt sửa đổi về luật đất đai, luật kinh doanh bất động sản, luật nhà ở,...đều liên quan trực tiếp đến bài toán xử lý nợ xấu ngân hàng. Chính vì thế, cần sự tham gia đầy đủ của tất cả các ban ngành để đi đến thống nhất chung.

Cũng theo TS. Cấn Văn Lực, nên tiến hành một buổi hội thảo với sự tham gia đầy đủ của các bộ ngành có liên quan, thâm chí cả Quốc hội và ban Kinh tế Trung ương cũng cần được mời tham gia.

Có chung quan điểm, ông Phan Thanh Hải kiến nghị việc tất cả các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cùng nghiên cứu, luật hóa Nghị quyết 42 để ban hành Luật Xử lý nợ xấu là rất cần thiết. Bởi các quy định trong Nghị quyết 42 được điều chỉnh hoặc liên quan đến nhiều văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành khác, như: Bộ Luật dân sự, Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật Quản lý thuế… Trong đó, một số văn bản pháp luật đến thời điểm hiện tại vẫn còn chồng chéo, chưa nhất quán.

Đọc tiếp