Nhật Bản dẫn đầu thế giới về tỷ lệ phụ nữ trung niên không có con

Dân số NHẬT BẢN
17:21 - 12/01/2023
Nhật Bản đang có tỷ lệ phụ nữ 50 tuổi không có con cao nhất trong số các nước đang phát triển. Ảnh: Nikkei Asia
Nhật Bản đang có tỷ lệ phụ nữ 50 tuổi không có con cao nhất trong số các nước đang phát triển. Ảnh: Nikkei Asia
0:00 / 0:00
0:00
Dữ liệu gần đây cho thấy, Nhật Bản đang có tỷ lệ phụ nữ 50 tuổi không có con cao nhất trong số các nước đang phát triển. Điều này càng tạo ra những thách thức mà quốc gia Đông Á này phải đối mặt trong việc ngăn chặn cuộc khủng hoảng dân số thấp.

Nikkei Asia đưa tin, theo thống kê của Tổ chức Hợp tác Kinh tế (OECD), tại Nhật Bản, 27% phụ nữ sinh năm 1970 chưa từng sinh con khi bước sang tuổi 50. Đây là tỷ lệ lớn nhất trong số 17 quốc gia có dữ liệu được so sánh. Xếp sau Nhật Bản là Phần Lan, với tỷ lệ 20,7%.

Áo và Tây Ban Nha lần lượt xếp thứ ba và thứ tư trong bảng thống kê. Mặc dù OECD không cập nhật số liệu của Đức, nhưng thống kê chính thức của nước này cho thấy 21% phụ nữ sinh năm 1969 không có con.

Có 24 quốc gia có dữ liệu so sánh đối với nhóm phụ nữ sinh năm 1965. Trong đó, Nhật Bản một lần nữa dẫn đầu về tỷ lệ phụ nữ không có con, ở mức 22,1%.

Các nước Tây Âu đã cố gắng ngăn chặn sự gia tăng tình trạng những người không có con, bằng cách cung cấp các hỗ trợ để cân bằng giữa công việc và cuộc sống gia đình. Theo một số báo cáo, tỷ lệ phụ nữ không có con đã giảm hoàn toàn ở Mỹ và Anh.

Vấn đề khó kết hôn, không muốn có con, trì hoãn việc có con ảnh hưởng đến tỷ lệ không có con. Ảnh: Japan Forward

Vấn đề khó kết hôn, không muốn có con, trì hoãn việc có con ảnh hưởng đến tỷ lệ không có con. Ảnh: Japan Forward

Tuy nhiên, Nhật Bản vẫn là một ngoại lệ, khi xu hướng này đang gia tăng ngay cả trong thế hệ trẻ. Theo ước tính của Viện nghiên cứu An sinh xã hội và Dân số quốc gia (IPSS) có trụ sở tại Tokyo, khoảng 31,6% đến 39,2% phụ nữ Nhật Bản sinh năm 2000 sẽ không có con trong suốt cuộc đời, tùy thuộc vào việc tỷ lệ sinh có giữ nguyên hay không.

Bà Rie Moriizumi, nhà nghiên cứu cấp cao tại IPSS, phát hiện ra rằng ngoài tình trạng vô sinh hoặc lý do sức khỏe, nguyên nhân khiến phụ nữ không có con bao gồm vấn đề khó kết hôn, không muốn có con, trì hoãn việc có con.

Trong những năm gần đây, tỷ lệ phụ nữ Nhật Bản không có con do gặp khó khăn trong hôn nhân đã tăng vọt và trở thành lý do hàng đầu đối với phụ nữ trong độ tuổi từ 25 - 49. Một rào cản lớn đối với hôn nhân là tìm được một người bạn đời phù hợp và có nguồn tài chính đầy đủ.

Bên cạnh đó, những phụ nữ không muốn có con đang chiếm tỷ lệ lớn thứ hai trong số những người không có con. Bà Moriizumi ước tính rằng khoảng 5% phụ nữ đã lựa chọn như vậy và con số này đặc biệt tăng lên ở các thế hệ trẻ.

Chuyên gia này cho biết, phụ nữ chưa kết hôn có nhiều khả năng quyết định không sinh con nếu họ có thu nhập thấp hoặc chưa tìm được bạn đời ưng ý. "Điều này cho thấy nhiều phụ nữ đã từ bỏ hơn là chủ động lựa chọn không sinh con", bà nói.

Nhiều phụ nữ phải đối mặt với lựa chọn giữa việc bỏ việc để nuôi gia đình hoặc bỏ con cái để tiếp tục sự nghiệp. Ảnh: AFP

Nhiều phụ nữ phải đối mặt với lựa chọn giữa việc bỏ việc để nuôi gia đình hoặc bỏ con cái để tiếp tục sự nghiệp. Ảnh: AFP

Để giải quyết vấn đề này, Chính phủ Nhật Bản dự kiến ​​sẽ mở rộng hỗ trợ tài chính cho các gia đình có trẻ em. Những người ủng hộ đã kêu gọi tăng phúc lợi xã hội cho những người làm việc bán thời gian, cũng như cải cách lao động để giúp các bậc cha mẹ cân bằng việc nuôi dạy con cái với cuộc sống công việc của họ. Bên cạnh đó, việc giảm chi phí giáo dục cũng đang trở thành một mục tiêu chính sách cấp bách.

Các nghiên cứu chỉ ra, nhóm phụ nữ sinh từ năm 1965 - 1970, chiếm tỷ lệ lớn về không có con, là thế hệ đầu tiên trải nghiệm tác động của luật cơ hội việc làm bình đẳng được ban hành vào năm 1986.

Mặc dù ngày càng có nhiều phụ nữ tham gia lực lượng lao động, nhưng việc thiếu các biện pháp giúp cân bằng giữa công việc và gia đình đã buộc nhiều người phải lựa chọn giữa việc bỏ việc để nuôi gia đình hoặc bỏ con cái để tiếp tục sự nghiệp, dẫn đến tỷ lệ sinh giảm.

Ông Toshihiko Hara, giáo sư danh dự tại Đại học Sapporo, người đã nghiên cứu về tình trạng không có con tại Đức và Nhật Bản, cho biết: "Khi phụ nữ ngừng coi việc kết hôn và nuôi dạy con cái là ưu tiên hàng đầu của họ để phát triển sự nghiệp, điều này khiến vấn đề hôn nhân và sinh con ngày càng bị trì hoãn. Ngày càng có nhiều người không có con".

Trong khi đó, một số chuyên gia cảnh báo rằng sự gia tăng tỷ lệ không có con có thể làm xáo trộn cấu trúc xã hội của Nhật Bản. Giáo sư Aya Abe của Đại học Tokyo đã tiến hành nghiên cứu định lượng để chỉ ra rằng việc không có con thường dẫn đến sự thiếu thốn mạng lưới hỗ trợ xã hội.

Thông qua việc sử dụng dữ liệu từ IPSS, bà Aya Abe phát hiện ra rằng một tỷ lệ lớn những người không có con không nhận được sự hỗ trợ hàng ngày, chẳng hạn như giúp đỡ trong các công việc nhỏ hoặc hỗ trợ về mặt tâm lý như tìm ai đó để trút bầu tâm sự.

Bà cũng cho biết, đàn ông - đặc biệt là những người thu nhập thấp, phải chịu đựng nhiều hơn với tình trạng thiếu thốn như vậy.

"Nghiên cứu ở châu Âu cho thấy những người không có con ở các quốc gia định hướng gia đình có nhiều khả năng trở nên bị cô lập", bà nói. "Chúng ta đang phụ thuộc rất nhiều vào sự hỗ trợ gia đình. Tình trạng bị cô lập đang trở thành một vấn đề xã hội lớn. Chúng ta phải tìm cách tạo ra một xã hội nơi mọi người có thể sống không phải lo lắng".

Tin liên quan

Đọc tiếp