|
![]() |
Cùng với thực phẩm, tài chính, du lịch, dược phẩm là một trong những mắt xích quan trọng của ngành Halal thế giới, góp phần bảo đảm y tế cho các nước Hồi giáo lẫn phi Hồi giáo.
Số liệu từ Dinar Standard cho thấy, giá trị nhập khẩu dược phẩm Halal của các nước thuộc Tổ chức Hợp tác Hồi giáo (OIC) dự kiến đạt 142 tỷ USD vào năm 2027, tỷ lệ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) là 5,7%.
Tại Indonesia (quốc gia có dân số Hồi giáo lớn nhất thế giới), chia sẻ với Mekong ASEAN, Tham tán thương mại Thương vụ Việt Nam tại Indonesia Phạm Thế Cường cho biết, đến năm 2029, quy mô thị trường dược phẩm của nước này (bao gồm dược phẩm Halal) sẽ lên mức 4,6 tỷ USD.
Tại Việt Nam, thông tin tại tọa đàm "Dược phẩm Việt Nam trong kỷ nguyên số - tương lai từ đổi mới sáng tạo và công nghệ" diễn ra vào tháng 1/2025, tổng giá trị thị trường dược phẩm nước ta sẽ tăng lên 7 tỷ USD trong năm 2025 và dự kiến đạt 10 tỷ USD vào năm 2026.
![]() |
Tuy nhiên, khoảng 50% nhu cầu của Việt Nam vẫn phụ thuộc vào nhập khẩu. Mekong ASEAN tính toán từ số liệu của Cục Hải quan, giai đoạn 2013 - 2024, Việt Nam đã chi tổng 36,1 tỷ USD để nhập khẩu dược phẩm từ thế giới. Kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu dược phẩm giai đoạn trên cũng đạt 4,76 tỷ USD.
Điều này đặt ra yêu cầu cấp bách đối với mục tiêu phát triển dược phẩm tại Việt Nam. Trong đó, dược phẩm Halal có nhiều cơ hội để phát triển, không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn thúc đẩy xuất khẩu, đặc biệt khi Việt Nam đã phê duyệt “Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa đến năm 2030” với định hướng đa dạng hóa thị trường và Đề án "Tăng cường hợp tác quốc tế để xây dựng và phát triển ngành Halal Việt Nam đến năm 2030".
Theo báo cáo của Dinar Standard, năm 2022, năm thị trường tiêu thụ dược phẩm Halal lớn nhất thế giới là Thổ Nhĩ Kỳ với 10,5 tỷ USD, Arab Saudi với 9,5 tỷ USD, Mỹ với 8,2 tỷ USD, Indonesia với 6,1 tỷ USD và Algeria với 4,5 tỷ USD.
|
![]() |
Hiện nay, Việt Nam là một trong 15 quốc gia có tên trên bản đồ dược liệu thế giới, sở hữu hơn 5.000 loài thực vật có giá trị làm thuốc. Cả nước có hơn 238 nhà máy sản xuất thuốc đạt chuẩn WHO - GMP, 17 nhà máy sản xuất thuốc đạt chuẩn EU – GMP.
Trong khi đó, theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư (nay là Bộ Tài chính), năm 2024 Việt Nam có 53 triệu lao động từ 15 tuổi trở lên, trong đó 28,3% lực lượng lao động đã qua đào tạo có bằng, chứng chỉ. Đây được coi là nguồn lực quan trọng để phát triển ngành dược phẩm Halal, đặc biệt khi ngành này cần nhân lực chuyên môn cao.
Mặt khác, Việt Nam đã phê duyệt một loạt đề án, chương trình liên quan như Chiến lược quốc gia phát triển ngành dược Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Chương trình phát triển công nghiệp dược, dược liệu sản xuất trong nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Chương trình phát triển công nghiệp hóa dược đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045...
![]() |
Gần đây nhất, tháng 2/2025, Thủ tướng Chính phủ đã Phê duyệt Đề án "Phát triển và hình thành trung tâm công nghiệp dược liệu tại tỉnh Quảng Nam với Sâm Ngọc Linh là cây chủ lực".
Việt Nam cũng thúc đẩy, đề nghị hợp tác ngành Halal với các nước Hồi giáo như Malaysia, Jordan, UAE..., hay tổ chức hội nghị mang tầm quốc tế như Hội nghị Halal toàn quốc vào cuối năm 2024; thành lập Trung tâm Chứng nhận Halal quốc gia (HALCERT)...
Với những nền tảng trên, ngành dược phẩm Halal tại Việt Nam đang ở trong những thời điểm được coi là thuận lợi nhất để bắt đầu phát triển khi sở hữu thế mạnh về dược liệu và chính sách hậu thuẫn.
![]() |
Tuy nhiên, cùng với những gì đang có, Việt Nam sẽ phải đối mặt với không ít khó khăn trong phát triển ngành dược phẩm Halal. Chia sẻ với Mekong ASEAN, PGS. TS Đinh Công Hoàng – Trưởng phòng nghiên cứu Trung Đông và Tây Á, Viện Nghiên cứu Nam Á, Tây Á và châu Phi (Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam) cho biết, các hệ thống pháp lý, tiêu chuẩn kỹ thuật, cơ sở hạ tầng để hỗ trợ ngành công nghiệp Halal cần tiếp tục được hoàn thiện.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp dược phẩm Halal không chỉ cần vốn cao trong đầu tư dây chuyền sản xuất mà còn phải đảm bảo nguồn nguyên liệu đạt chuẩn theo Luật Shari’ah. Tuy nhiên, Việt Nam có tới 98% là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Hiện nay, rất ít doanh nghiệp hiểu về thị trường Halal. Nếu không có nguồn nhân lực chuyên môn, Việt Nam khó có thể xây dựng một ngành dược phẩm Halal vững mạnh.
![]() |
Trong khi đó, tại khu vực, là một trong những quốc gia Hồi giáo lớn trên thế giới và có ngành dược phẩm phát triển (bao gồm dược phẩm Halal), ông Cường cho biết, Indonesia hiện có khoảng 241 doanh nghiệp sản xuất thuốc, 17 doanh nghiệp sản xuất nguyên liệu dược, 132 doanh nghiệp sản xuất thuốc y học cổ truyền và 18 doanh nghiệp sản xuất, chiết xuất sản phẩm tự nhiên. Ngành công nghiệp dược phẩm Indonesia sản xuất nhiều loại sản phẩm, bao gồm thuốc generic, thuốc không kê đơn (OTC), vaccine và thuốc thảo dược.
Dù vậy, Indonesia cũng phải đối mặt với nhiều thách thức trong quá trình phát triển ngành dược phẩm đặc biệt này. Trong đó, nhiều doanh nghiệp còn hạn chế trong việc phân tích xu hướng nhu cầu các nước cho sản phẩm dược Halal xuất khẩu.
Chi phí đầu vào sản xuất cao, nhưng việc tiếp cận vốn vay của doanh nghiệp còn khó khăn khi các tổ chức tín dụng Hồi giáo dành khoản vay cho sản xuất dược phẩm Halal vẫn chỉ ở mức tối thiểu.
Nhìn ra thế giới, theo Dinar Standard, các quốc gia thuộc OIC đối phó với việc thiếu nhân lực tay nghề cao bằng việc đưa ra các chương trình giảng dạy, nâng cao kỹ năng lao động, đặc biệt phát triển công nghệ dược phẩm. Điều này cho thấy, Việt Nam có cơ hội cải thiện những điểm yếu từ việc học hỏi và cùng phát triển với các đối tác quốc tế.
|
Trong bức tranh hợp tác, ông Hoàng cho rằng, khu vực ASEAN có nhiều quốc gia Hồi giáo lớn như Malaysia, Indonesia, đây sẽ là cơ hội cho Việt Nam học hỏi và thâm nhập sâu vào chuỗi cung ứng Halal toàn cầu.
Đơn cử, Malaysia đã xây dựng và phát triển ngành Halal trong 40 năm qua, có tiêu chuẩn Halal hoàn thiện (JAKIM), có thị trường tiêu thụ nội địa về sản phẩm Halal rộng lớn. Việt Nam có thể phát triển theo mô hình các cơ sở hạ tầng Halal tại Malaysia, bao gồm khu công nghiệp Halal. Hai nước cũng có thể hợp tác trong chuyển giao công nghệ, kỹ thuật sản xuất tiến tiến...
Malaysia có thể hỗ trợ doanh nghiệp Việt thông qua chia sẻ quy trình sản xuất sản phẩm dược phẩm Halal. Hai nước còn có thể tổ chức các sự kiện kết nối giao thương để doanh nghiệp hai bên có cơ hội gặp gỡ, trao đổi, tạo cơ hội hợp tác mới trong ngành này…
![]() |
Trong khi đó, theo Tham tán Phạm Thế Cường, là quốc gia nằm trong Top 25 thị trường dược phẩm lớn nhất toàn cầu, Indonesia sẽ là nơi đầu tư tiềm năng cho doanh nghiệp Việt về dược phẩm Halal.
Sự đa dạng sinh học của hai nước còn mang đến cơ hội cộng tác sản xuất thuốc truyền thống và thảo dược. Với thế mạnh phần mềm, chuyển đổi số, Việt Nam cũng có thể khai thác nhu cầu áp dụng công nghệ số từ khâu sản xuất đến phân phối của doanh nghiệp dược Indonesia.
Mặt khác, theo ông Cường, Việt Nam có thể học hỏi những kinh nghiệm mà quốc đảo Đông Nam Á này đã đúc kết. Cụ thể, ngoài việc giảm sự phụ thuộc nhập khẩu nguyên liệu thô, Chính phủ Indonesia còn thực hiện các ưu đãi về tài chính và phi tài chính, các chương trình phát triển nhân lực để thu hút đầu tư tốt hơn vào dược phẩm Halal.
Indonesia cũng thông qua Cơ quan bảo đảm sản phẩm Halal - BPJPH để thúc đẩy hợp tác Halal với các nước, ký kết thỏa thuận công nhận lẫn nhau về chứng nhận Halal, tận dụng FTA/CEPA đã ký kết. Đặc biệt, Indonesia đã đưa nội dung hợp tác Halal (kinh tế hồi giáo) vào các thỏa thuận thương mại, như trong đàm phán ký kết CEPA với Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh (GCC).
![]() |
Bên cạnh đó, Chính phủ Indonesia cũng hỗ trợ sản xuất trong nước và cải thiện chuỗi cung ứng bằng cách áp dụng các công nghệ số; các chương trình phát triển lực lượng lao động đã được triển khai để đảm bảo nhân tài có tay nghề cho ngành.
Indonesia còn yêu cầu sử dụng các sản phẩm nội địa trong mua sắm hàng hóa và dịch vụ, bao gồm thông qua chương trình Bảo hiểm y tế quốc gia. Các chính sách khác bao gồm các ưu đãi về tài chính, chẳng hạn như giảm thuế và miễn thuế nhập khẩu cho các công ty dược phẩm sản xuất nguyên liệu thô.
Indonesia cũng có các chính sách tín dụng hỗ trợ ngành dược phẩm với nhiều chương trình khác nhau nhằm khuyến khích tăng trưởng, xuất khẩu và tăng khả năng cạnh tranh của ngành này như Chương trình xuất khẩu đặc biệt (PKE) dành cho dược phẩm và thiết bị y tế do Cơ quan tài trợ xuất khẩu Indonesia (LPEI) thực hiện.
Trong suốt năm 2024 và cho đến tháng 1/2025, LPEI đã giải ngân 524 tỷ IDR - Rupiah Indonesia (tương đương 32 triệu USD) cho các công ty xuất khẩu dược phẩm để củng cố các ngành công nghiệp chiến lược và tăng khả năng cạnh tranh của các sản phẩm dược phẩm nước này trên thị trường quốc tế. Thông qua chương trình PKE, LPEI hỗ trợ xuất khẩu các ngành công nghiệp dược phẩm như vaccine, thuốc men và thiết bị y tế như ống tiêm…
![]() |
![]() |
Trong quá trình xây dựng thương hiệu dược phẩm Halal Việt Nam, PGS. TS Đinh Công Hoàng khẳng định, báo chí sẽ đóng vai trò trọng yếu trong việc truyền thông hai chiều.
Một mặt, báo chí cung cấp thông tin về thị trường, các yêu cầu của ngành Halal, góp phần quan trọng vào sự phát triển nhận thức, hiểu biết của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam.
Mặt khác, báo chí phản ánh những gì Việt Nam đang có, đang làm, về sự nỗ lực của quốc gia trong việc tuân thủ các quy định sản xuất Hồi giáo. Bởi để thâm nhập vào thị trường này, Việt Nam sẽ không chỉ đơn thuần có các chứng nhận Halal mà còn cần tạo được niềm tin lớn mạnh.
“Điều quan trọng để xây dựng niềm tin cho thị trường Hồi giáo chính là sự tuân thủ nghiêm ngặt, nếu một doanh nghiệp làm sai, niềm tin về Việt Nam từ thế giới Hồi giáo sẽ suy giảm nghiêm trọng.
Việt Nam sẽ phải có một hệ sinh thái Halal chuẩn chỉnh, trong đó, không chỉ doanh nghiệp dược phẩm, mà các lĩnh vực khác cũng cần đáp ứng chặt chẽ tiêu chuẩn Hồi giáo, tạo nên thương hiệu Halal Việt Nam. Khi đó, báo chí sẽ phải đóng vai trò truyền thông đến quốc tế về những hành động mạnh mẽ mà Việt Nam đang thực hiện trong việc xây dựng ngành Halal,” PGS. TS Đinh Công Hoàng nhận định.
Theo chuyên gia, dù đi sau thế giới, nhưng với lợi thế về thiên nhiên, về vị trí địa lý, về sự kiên định phát triển và cơ hội hợp tác quốc tế, Việt Nam sẽ sớm góp mặt vào chuỗi mắt xích của ngành Halal thế giới, đồng thời thị trường nội địa cũng có cơ hội tiêu thụ “các sản phẩm Halal make in Vietnam”.
![]() |