Tại hội thảo "Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp hướng tới chuyên nghiệp bền vững" do Tạp chí Nhà đầu tư tổ chức sáng 16/8, ông Hoàng Văn Thu, Phó Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) đánh giá, sau thời kỳ trầm lắng do một số sai phạm trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ, với nỗ lực chỉ tạo từ Chính phủ, bộ ngành, cơ quan quản lý Nhà nước, thị trường trái phiếu đã đi vào hoạt động ổn định.
Trong 7 tháng đầu năm 2024 có 183 đợt phát hành thành công, tổng giá trị huy động 174.000 tỷ đồng, tăng 2,78 lần so với năm 2023. Đối với hoạt động phát hành trái phiếu ra công chúng, trong 7 tháng 2024, UBCKNN đã cấp phép và phát hành trị giá gần 30.000 tỷ đồng, con số này chưa bao gồm số liệu trái phiếu của công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ.
Theo mục tiêu phát triển trái phiếu doanh nghiệp được Chính phủ phê duyệt, quy mô thị trường đến 2025 đạt 20% GDP và đến 2030 đạt 30% GDP. UBCKNN đã xây dựng chiến lược phát triển thị trường và được Chính phủ phê duyệt.
“Để đạt được mục tiêu này không dễ dàng. Bởi làm sao để quản lý chặt chẽ theo hướng bền vững song vẫn tạo điều kiện cho tổ chức kinh tế huy động vốn. Ngoài cơ quan quản lý, các chủ thể tham gia vào thị trường trái phiếu còn có đơn vị phát hành, đơn vị cung cấp dịch vụ, tư vấn và nhà đầu tư,” ông Hoàng Văn Thu đánh giá.
Đồng quan điểm với ông Hoàng Văn Thu, Tiến sĩ Cấn Văn Lực - Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV kiêm Giám đốc Viện đào tạo và nghiên cứu BIDV cũng nhận định thị trường trái phiếu năm 2023 và 2024 đã phục hồi so với năm 2022 – năm được đánh giá là “kinh khủng nhất” của thị trường trái phiếu từ trước đến nay.
Bên cạnh hoạt động phát hành phục hồi khá tích cực, xu hướng mua lại trái phiếu doanh nghiệp cũng đã giảm dần, với khoảng hơn 38,4 nghìn tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp đã được mua lại trước hạn trong nửa đầu năm 2024, giảm 64% so với cùng kỳ.
Thị trường trái phiếu doanh nghiệp được kỳ vọng phục hồi tích cực hơn nữa trong những tháng cuối năm 2024, trong bối cảnh kinh tế vĩ mô được dự báo khả quan, lạm phát trong tầm kiểm soát, chiến lược tài chính đặt mục tiêu phát triển quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp đạt lần lượt 20% GDP vào cuối năm 2025 và 25% cuối năm 2030…
Tiến sĩ Cấn Văn Lực đánh giá thị trường trái phiếu vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Ảnh: Minh Phong - MekongASEAN |
“Tuy nhiên, thị trường vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Đầu tiên là, sự phục hồi của hoạt động phát hành trái phiếu chưa đồng bộ với cơ cấu nhà phát hành chủ yếu vẫn là tổ chức tín dụng (TCTD - chiếm tới 67,2% tổng lượng phát hành) và doanh nghiệp bất động sản (chiếm 21,5%), các lĩnh vực khác chỉ chiếm tỷ trọng rất hạn chế trong 7 tháng đầu năm 2024,” Tiến sĩ Cấn Văn Lực cho biết.
Số lượng doanh nghiệp chậm hoặc hoãn thanh toán trái phiếu đáo hạn là khá lớn. Theo tính toán của FiinGroup, tổng giá trị trái phiếu doanh nghiệp chậm thanh toán đến tháng 7/2024 ước khoảng 209,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 21% dư nợ toàn thị trường, trong đó nhóm ngành bất động sản chiếm tỷ trọng lớn nhất, khoảng 68% giá trị chậm trả.
Theo Tiến sĩ Cấn Văn Lực, thị trường trái phiếu phục hồi khi so sánh với mức nền thấp của 2 năm trước. Bên cạn đó, số lượng trái phiếu mới chủ yếu vẫn do ngân hàng phát hành, chiếm khoảng 56% năm 2023 và 67% trong 7 tháng đầu năm 2024.
“Ta không quá ngạc nhiên về điều này, khi ngân hàng thương mại có nhu cầu rất lớn để phát hành trái phiếu, nhằm tăng vốn cấp 2, đảm ứng yêu cầu an toàn vốn theo thông lệ quốc tế. Vấn đề ở đây là tỷ trọng, mức 60% - 70% là rất lớn," Tiến sĩ Cấn Văn Lực cho biết.
Tuy nhiên, trái phiếu ngân hàng khá an toàn khi mục đích sử dụng vốn rất rõ (chủ yếu tăng vốn cấp 2), được quản lý chặt chẽ bởi Ngân hàng Nhà nước, có kiểm toán độc lập cả quốc tế lẫn trong nước. Đối với nhà phát hành là ngân hàng, việc nợ quá hạn trái phiếu là không xảy ra.
Theo ông Cấn Văn Lực, thị trường trái phiếu doanh nghiệp vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong thời gian sắp tới, trong đó có 10 vấn đề đáng chú ý như sau:
Niềm tin của nhà đầu tư cần thời gian để phục hồi sau những sai phạm nghiêm trọng trên thị trường thời gian qua.
Hoạt động phát hành phục hồi không đồng đều, khi tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp bất động sản chiếm 90% lượng phát hành, các lĩnh vực khác chỉ chiếm tỉ trọng rất hạn chế.
Trái phiếu doanh nghiệp chậm thanh toán đến tháng 7/2024 ước khoảng 209,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 21% dư nợ trái phiếu doanh nghiệp toàn thị trường. Đây chưa tính số lượng trái phiếu các nhà phát hành đàm phán để giãn nợ trong thời gian vừa qua.
Rủi ro lan truyền và liên thông giữa thị trường ngân hàng – chứng khoán – bất động sản (BĐS) vẫn luôn tiềm ẩn. Đến cuối tháng 6/2024, các tổ chức tín dụng cho vay lĩnh vực BĐS với dư nợ khoảng 3,02 triệu tỷ đồng, chiếm 21,5% tổng dư nợ của nền kinh tế; nhiều tài sản đảm bảo tín dụng là BĐS (khoảng 65%); khoảng 40% lượng trái phiếu doanh nghiệp phát hành được nắm giữ bởi ngân hàng thương mại (NHTM); vốn hóa ngân hàng thương mại niêm yết chiếm khoảng 30% và doanh nghiệp BĐS hiện nay chiếm khoảng 12% tổng vốn hóa thị trường chứng khoán.
Quy mô thị trường còn rất nhỏ, quy mô dư nợ trái phiếu doanh nghiệp hiện nay là khoảng 10% GDP (cuối năm 2023). Bình quân của khu vực ASEAN là 25% – 30%, của Hàn Quốc là 96%.
Thị trường phát triển chủ yếu dựa vào phát hành riêng lẻ. Phát hành riêng lẻ chiếm hơn 90% tổng giá trị phát hành, dẫn tới rủi ro tiềm ẩn cao hơn (do chất lượng cả nhà đầu tư và trái phiếu.
Cơ cấu nhà đầu tư còn nhiều bất cập, tổ chức tín dụng vẫn là nhà đầu tư chính, trong khi các nhà đầu tư tổ chức khác chiếm tỷ trọng nhỏ, trong khi các nhà đầu tư tổ chức khác như công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, quỹ đầu tư, công ty chứng khoán…còn chiếm tỷ trọng nhỏ.
Thể chế chính sách chưa hoàn hiện, những quy định chặt chẽ hơn của nghị định 65/2022/NĐ-CP chưa được đánh giá, rà soát.
Cơ sở hạ tầng của thị trường còn bất cập, một số thông tin về quy mô phát hành, cơ cấu nhà đầu tư… chưa được cập nhật đầy đủ, kịp thời; hệ thống giao dịch trái phiếu doanh nghiệp tập trung mới đưa vào vận hành được hơn một năm…, cũng có ảnh hưởng đến công tác quản lý và tính thanh khoản của thị trường.
Nhận thức và mức độ hiểu biết của nhà đầu tư còn hạn chế, dẫn đến xảy ra tâm lý đám đông, đầu tư chỉ quan tâm đến lãi suất, bất chấp rủi ro.