Người mở đầu, đóng góp to lớn cho nền y dược dân tộc
Theo sử liệu, Danh y Tuệ Tĩnh tên thật là Nguyễn Bá Tĩnh, sinh năm 1330 tại làng Nghĩa Phú, tổng Văn Thai, phủ Thượng Hồng (nay là thôn Nghĩa Phú, xã Cẩm Vũ, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương). Ông có pháp hiệu là Tuệ Tĩnh thiền sư, biệt danh là Hồng Nghĩa.
Toàn cảnh nhìn từ bên trong của Đền Bia. |
Nghi môn Đền Bia. |
Danh y Tuệ Tĩnh mồ côi cha, mẹ từ lúc 6 tuổi, được sư trụ trì chùa Nghiêm Quang (chùa Giám ngày nay, ở xã Cẩm Sơn, huyện Cẩm Giàng) nuôi ăn học, sau đó được sư cụ chùa Giao Thủy ở Sơn Nam (nay là chùa Keo thuộc tỉnh Nam Định) cho tu học.
Đền Bia thuộc thôn Văn Thai, xã Cẩm Văn, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. |
Vốn là người thông minh, ham học, năm 22 tuổi, Tuệ Tĩnh thi đỗ Thái học sinh đời vua Trần Dụ Tông, niên hiệu Thiệu Phong thứ 12 (1351). Nhưng ông không ra làm quan mà tu ở chùa Nghiêm Quang chuyên tâm nghiên cứu y học giáo lý, lấy vườn chùa làm cơ sở trồng thuốc chữa bệnh.
Tượng Đại danh y, Thiền sư Tuệ Tĩnh trong Hậu cung Đền Bia. |
Trước tình cảnh nhân dân đói nghèo, bệnh tật, ông đã chế tạo được nhiều dược liệu, chữa bệnh không lấy tiền, huấn luyện tăng ni trong chùa trở thành thầy thuốc. Với phương châm “Nam dược trị Nam nhân”, ông chủ động đi tìm nhiều cây thuốc về trồng tại vườn chùa, gây dựng phong trào trồng thuốc trong nhân dân, thu trữ thuốc để kịp thời chữa bệnh.
Bằng việc truyền bá các phương thuốc đơn giản và dược tính bằng thơ chữ Nôm dễ nhớ, dễ hiểu, Danh y Tuệ Tĩnh đã thúc đẩy nguồn dược liệu phát triển, xây dựng quan điểm y học dân tộc.
Tấm bia khắc lời di nguyện của Đại danh y Tuệ Tĩnh được đặt trong khám thờ. |
Năm Giáp Tý (1384), vua nhà Trần phái Danh y Tuệ Tĩnh đi sứ nhà Minh. Theo sử sách Trung Quốc, khi đó Hoàng Hậu nhà Minh đang mắc trọng bệnh, các thầy thuốc đều “lực bất tòng tâm”, nhưng Danh y Tuệ Tĩnh đã dùng thuốc Nam chữa khỏi. Trước tài năng của ông, vua Minh đã phong ông làm “Đại y Thiền sư” và giữ ông ở lại. Sau này, ông mất tại đất Giang Nam (Trung Quốc).
Lễ hội truyền thống đền Bia diễn ra vào ngày 1/4 Âm lịch. |
Ngoài y dược phục vụ con người, Danh y Tuệ Tĩnh còn tập hợp những bài thuốc chữa bệnh cho gia súc, phục vụ sản xuất, đặt cơ sở cho ngành thú y dân tộc. Những tác phẩm y dược lớn và giá trị, tiêu biểu mà ông để lại là hai cuốn: Nam dược thần hiệu và Hồng Nghĩa giác tư y thư.
Mỗi tác phẩm của ông đều có ảnh hưởng trong giới y học nước nhà. Cho đến ngày nay, những tác phẩm đó vẫn là những di sản quý báu đang được kế thừa và phát huy trong việc xây dựng nền y học dân tộc hiện đại. Nhân dân suy tôn Tuệ Tĩnh là “vị thánh thuốc Nam”.
Tòa Tiền tế tại đền Bia được trùng tu phỏng theo phong cách kiến trúc thời Nguyễn, gồm 5 gian bằng gỗ. |
Những câu chuyện, sự tích ly kỳ
Theo điển tích lưu truyền tại địa phương, khoảng gần 300 năm sau khi Danh y Tuệ Tĩnh mất, Tiến sĩ Nguyễn Danh Nho (1638-1699), người cùng làng với Danh y Tuệ Tĩnh đi sứ sang Trung Quốc.
Trên đường đi, ông đã tìm thấy mộ cụ Tuệ Tĩnh. Vì đang trên đường đi kinh lý, nên không thể đưa hài cốt cụ Tuệ Tĩnh về nên sứ thần Nguyễn Danh Nho đã lấy tờ giấy bản ốp vào tấm bia mộ mang về.
Cũng theo điển tích, khi về nước, sứ thần Nguyễn Danh Nho cho khắc lại dòng chữ lên bia đá rồi cho chuyển về quê. Tương truyền khi vận chuyển, đến chỗ bây giờ là Đền Bia, lúc này cả vùng quê đang bị ngập nước, bỗng dưng thuyền lật, tấm bia rơi xuống không lấy lên được.
Ít lâu sau, nước cạn, nhân dân tìm lại được bia, thấy doi đất ở đây có hình con dao cầu (dao thái thuốc) nên đã dựng ngôi đền nhỏ để thờ tấm bia, thu hút nhiều người đến thờ cúng xin thuốc.
Cổng vào vườn thuốc Nam trong khuôn viên Đền Bia. |
Đặc biệt, vào năm Thiệu Trị thứ 5 (1845), nhà Vua đã phải hạ lễ cấm việc cúng lễ và xin thuốc mang màu sắc mê tín, mất vệ sinh. Đồng thời, sai người mang tấm bia trong đền cất giữ vào kho của tỉnh Hải Dương.
Thời gian sau đó, có một người của làng Văn Thai (xã Cẩm Văn) làm chức thủ kho đã lấy lại tấm bia đá và bí mật đem về, nhưng rất đáng tiếc tấm bia đã bị đục hết chữ không còn đọc được nữa.
Vườn thuốc được chia làm 9 ô, trồng 9 nhóm thuốc theo quy định của Bộ Y tế. |
Ngoài ra, tương truyền vào năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), ngày mồng 1 tháng 4 Âm lịch xảy ra hiện tượng “Thánh ứng”, người dân khắp nơi tấp nập về Đền Bia lễ bái, xin thuốc rất đông.
Từ đó người dân địa phương lấy ngày mồng 1 tháng 4 Âm lịch hằng năm làm ngày tổ chức lễ hội Đền Bia. Tới năm 1936, nhân dân dựng lên một ngôi đền mới khang trang hơn tại đây như kiến trúc còn lại hiện nay.
Nhà thuốc Đông y tại đền Bia – nơi tư vấn khám, chữa bệnh khi người dân và du khách có nhu cầu. |
Duy trì, phát huy những giá trị tốt đẹp
Ông Hà Quang Thành, Trưởng Ban quản lý di tích huyện Cẩm Giàng cho biết, hiện nay, tại một số làng thuộc các xã Cẩm Văn, Cẩm Vũ (huyện Cẩm Giàng) có trên 30 lương y hành nghề cắt thuốc, chẩn trị, chữa bệnh bằng thuốc Nam. Đặc biệt, tại quê hương của cụ Tuệ Tĩnh, một số gia đình còn lưu giữ được bí quyết chữa các bệnh về thận, rắn cắn, hen suyễn, bệnh dại… từ nhiều đời nay.
Bên cạnh đó, trong khu vực Đền Bia còn có vườn thuốc Nam được chia làm 9 ô, trồng 9 nhóm thuốc. Các nhóm cây thuốc chữa bệnh gồm: viêm gan, sốt xuất huyết, mụn nhọt, cảm sốt, chữa ho…
Xin chữ đầu năm tại Đền Bia. |
Xung quanh đền, Ban quản lý di tích cũng tận dụng các khu đất trống trồng cây thuốc, để vừa tạo nguồn thuốc vừa tạo cảnh quan.
Cũng theo ông Hà Quang Thành, từ năm 2016, tại lễ hội truyền thống Đền Bia (1/4 Âm lịch), người dân và du khách khi đến được tư vấn, khám bệnh, bắt mạch, bốc thuốc miễn phí (thuốc chữa đau nhức, xương khớp, tiêu hóa, thanh nhiệt, giải độc…) do một số doanh nghiệp dược thực hiện.
Thủy đình trên hồ nước trong khuôn viên Đền Bia. |
Trước đó, trong quá trình lập hồ sơ khoa học xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Đền Xưa – Chùa Giám – Đền Bia, ngoài việc khoanh vùng bảo vệ di tích khu vực 1, tỉnh Hải Dương cũng quan tâm đến quy hoạch khu vực 2 với diện tích trên 20 ha để phát triển vùng dược liệu tại Đền Bia. Đây được coi là trung tâm bảo tồn vùng thuốc Nam, nhằm phát huy hơn nữa những giá trị văn hóa, lịch sử của ngôi đền.