Quan điểm kiên định của Ngân hàng Nhà nước
Trước đó, chia sẻ tại Hội nghị "Thủ tướng với các Doanh nghiệp" hồi đầu tháng 8, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng khẳng định, tăng trưởng tín dụng phải đảm bảo được các mục tiêu: Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần kiểm soát lạm phát và bảo đảm an toàn hoạt động cho các ngân hàng.
Cũng theo Thống đốc, việc cấp tín dụng do tổ chức tín dụng tự thỏa thuận với khách hàng và phải bảo đảm theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, thời gian tới Ngân hàng Nhà nước sẽ rà soát, điều chỉnh nốt phần tăng trưởng tín dụng của dữ liệu 14% còn lại; tiếp tục theo dõi diễn biến lạm phát để phối hợp với các bộ ngành tham mưu cho Chính phủ đạt những mục tiêu đề ra.
Đây cũng không phải là lần đầu tiên tư lệnh ngành ngân hàng Việt Nam phát đi thông điệp kiên định với mục tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2022 ở mức 14%, đồng thời thận trọng trong điều hành tín dụng bối cảnh hiện nay.
Room tín dụng hạn chế, phân bổ thế nào?
Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tính đến ngày 15/8, tín dụng toàn nền kinh tế đạt trên 11,45 triệu tỷ đồng, tăng 9,62% (cùng kỳ năm 2021 tăng 6,68%). Với mục tiêu tăng trưởng 14%, trong hơn 4 tháng cuối năm, dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế còn có thể tăng thêm 4,38%, tương đương quy mô khoảng 457.450 tỷ đồng.
Tuy nhiên, Chính phủ đang thực hiện chương trình phục hồi kinh tế, trong đó có gói kích cầu quy mô 40.000 tỷ đồng từ ngân sách Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh, với 2% lãi suất khi vay vốn tại các ngân hàng thương mại trong vòng 2 năm từ 2022-2023.
Ước tính các ngân hàng sẽ dành khoảng 800.000 tỷ đồng dư nợ cho vay trong năm nay để giảm lãi suất cho người dân, doanh nghiệp đủ điều kiện. Sang năm 2023, dư nợ dự kiến được hỗ trợ lãi suất vào khoảng 1,2 triệu tỷ đồng.
Như vậy, với mục tiêu tăng trưởng tín dụng trong năm nay 14%, chỉ còn khoảng 500.000 tỷ đồng sẽ được giải ngân trong nửa cuối năm. Câu chuyện đặt ra là, Ngân hàng Nhà nước sẽ "co kéo" khoản tín dụng ít ỏi 500.000 tỷ đồng này như thế nào?
Tại cuộc họp báo tổng kết hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm, lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước nêu quan điểm, cơ sở phân bổ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các nhà băng sẽ căn cứ trên cơ sở kết quả xếp hạng từng tổ chức tín dụng theo các tiêu chí và chấm điểm của Ngân hàng Nhà nước.
Cùng với đó là xem xét một số yếu tố cụ thể hóa chủ trương, định hướng điều hành của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước như tiêu chí giảm lãi suất cho vay hỗ trợ doanh nghiệp và người dân; tiêu chí tín dụng tập trung vào lĩnh vực đầu tư kinh doanh bất động sản, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp; tiêu chí tổ chức tín dụng tham gia hỗ trợ xử lý các ngân hàng yếu kém… để làm cơ sở điều chỉnh tăng/giảm chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đối với các ngân hàng.
Điều này đồng nghĩa, việc nới hạn mức tín dụng sẽ diễn ra chọn lọc giữa các ngân hàng với mức độ sẽ không quá cao. Trong khi đó nhu cầu vốn tín dụng trong năm nay tăng trưởng cao gắn với nhu cầu thực hơn so với trước rất nhiều khiến hầu hết các ngân hàng đều "khát room" tín dụng.
Vẫn có cơ hội xem xét nới room tín dụng lên 15-16%
Chia sẻ về vấn đề này, tại tọa đàm “Phát triển nguồn vốn cho bất động sản: Dư địa và gợi ý các giải pháp bền vững” diễn ra sáng 24/8, các chuyên gia đều cho rằng room tín dụng tăng lên 15-16% trong năm 2022 là mức có thể chấp nhận được.
Cụ thể, lý giải về việc Ngân hàng Nhà nước chưa nới room tăng trưởng tín dụng, TS. Cấn Văn Lực - Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV cho biết ngân hàng còn băn khoăn chuyện chưa nới room do hai nguyên nhân là lo ngại lạm phát và thanh khoản hệ thống ngân hàng.
Tuy nhiên, trong bối cảnh lạm phát chủ yếu do chi phí đẩy, nếu có thể kiểm soát giá xăng dầu và giá heo thì có thể tự tin kiểm soát được lạm phát dưới 4%. Do đó, không nên quá lo ngại về lạm phát mà bóp nghẹt thị trường để có thể tận dụng được cơ hội phục hồi. Khi cả thế giới đang đối mặt với lạm phát thì Việt Nam đã kiểm soát được, đó là một cơ hội rất tốt.
Trong khi đó, về thanh khoản, ông Lực thông tin thanh khoản hệ thống ngân hàng hiện nay hoàn toàn trong khả năng kiểm soát. Tỷ lệ cho vay so với vốn lưu động trong thị trường 1 theo tính toán sơ bộ đến thời điểm hiện nay là 92%, vẫn ở mức an toàn. Tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn hiện nay 25,2% và ngưỡng cho phép của Ngân hàng Nhà nước bắt đầu từ 1/10 năm nay là 34%, tức là vẫn trong tầm kiểm soát.
Theo quan sát của ông Lực, dòng vốn trung và dài hạn chảy vào hệ thống các ngân hàng đang mạnh hơn, đặc biệt là từ tháng 6,7,8. Tỷ trọng vốn ngắn hạn và trung dài hạn hiện nay đã khác không còn ở tỷ lệ 20% - 80% như trước đây mà đã cải thiện hơn rất nhiều.
"Nếu chờ đợi đến quý IV/2022 mới nới room là hơi muộn và có thể sẽ mất cơ hội. Ngân hàng Nhà nước cần lưu ý đến vấn đề này và xem xét trong tháng tới, bởi nếu không khơi thông sớm sẽ bị mất cơ hội, tăng nợ đọng lẫn nhau cực kỳ nguy hiểm và nợ xấu ngân hàng tăng lên", TS. Cấn Văn Lực nhìn nhận.
Đồng quan điểm, TS. Lê Xuân Nghĩa, thành viên Hội đồng Tư vấn - Chính sách Tiền tệ Quốc gia, cũng cho rằng, với room cũ thì nhiều ngân hàng cạn kiệt. Về vấn đề cấp room mới, theo quan điểm của ông, muốn chống lạm phát chi phí đẩy thì phải dùng thuế để chống, khi giảm lạm phát xuống dưới mức kỳ vọng thì có thể nới room.
Số liệu do TS. Cấn Văn Lực công bố hồi đầu năm cho thấy, tăng trưởng tín dụng bình quân 3 năm (2019-2021) của Mỹ là 14%. Đối chiếu theo con số này, TS. Lê Xuân Nghĩa cho rằng room tín dụng tăng lên 15-16% là mức có thể chấp nhận được.