Ảnh minh họa: Lê Hồng Nhung/Mekong ASEAN |
Trong nửa đầu tháng 8, rau quả là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất với 350 triệu USD, tăng tới 96% so với cùng kỳ năm trước. Gạo là mặt hàng có giá trị lớn thứ hai với 249 triệu USD, so với cùng kỳ giảm 6%. Lượng gạo xuất khẩu cũng giảm 7% YoY, còn 422.463 tấn.
Lượng cà phê trong kỳ đầu tháng 8 giảm 7,5% YoY, xuống mức 36.903 tấn, nhưng kim ngạch lại tăng thêm 67,4% YoY, lên mức 195 triệu USD. Hạt điều xuất khẩu ghi nhận tăng lần lượt 15% YoY về lượng và 32% YoY về kim ngạch, đạt lần lượt 30.004 tấn và 188 triệu USD.
Dù lượng hạt tiêu chỉ tăng 27% so với cùng kỳ năm trước (lên mức 10.006 tấn) nhưng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này tăng trưởng tới 102% YoY, đạt 59,5 triệu USD. Đây cũng là mặt hàng có kết quả tăng trưởng kim ngạch cao nhất trong nhóm nông sản.
Cùng đà tăng, sắn và sản phẩm sắn ghi nhận tăng 16% YoY về lượng, lên 93.842 tấn; kim ngạch cũng đạt 42 triệu USD, tăng 10,9% YoY. Chè là mặt hàng có giá trị thấp nhất khi chỉ đem về 12,1 triệu USD, tăng 17% YoY; lượng xuất khẩu đạt 6.347 tấn trong nửa đầu tháng 8/2024, tăng 13,9% YoY.
Về giá xuất khẩu bình quân, trong số các mặt hàng nông sản, cà phê là mặt hàng có giá xuất khẩu tăng cao nhất trong nửa đầu tháng 8/2024 khi +81% YoY, đạt mức trung bình 5.293 USD/tấn.
Giá xuất khẩu hạt tiêu cũng ghi nhận tăng 58% YoY, lên mức 5.954 USD/tấn; tiếp đến là hạt điều với +14% YoY, đạt 6.285 USD/tấn. Chè và gạo có mức tăng nhẹ hơn với lần lượt +2,7% YoY và 1,4% YoY, đạt 1.908 USD/tấn và 590 USD/tấn.
Trái ngược với đà tăng trên, giá xuất khẩu bình quân sắn và sản phẩm từ sắn lại giảm 4,4% YoY, còn 454 USD/tấn. Riêng đối với mặt hàng sắn, giá xuất khẩu trung bình mặt hàng này đã giảm từ 269 USD/tấn xuống còn 254 USD/tấn, tương ứng giảm 5,8% YoY.