Đường nối Khánh Hòa - Lâm Đồng - Ninh Thuận. |
Với 471/472 phiếu tán thành, tương đương 95,34% tổng số đại biểu, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu tư dự án đường giao thông nói trên.
Trước khi biểu quyết, Quốc hội nghe Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết này.
Theo đó, Dự án nhằm cụ thể hóa mục tiêu phát triển tỉnh Khánh Hòa theo Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 28/1/2022 của Bộ Chính trị về xây dựng, phát triển tỉnh Khánh Hòa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; hoàn thiện hệ thống giao thông kết nối 2 huyện miền núi Khánh Sơn và Khánh Vĩnh theo quy hoạch hệ thống giao thông của tỉnh Khánh Hòa.
Tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội 2 huyện này nói riêng và tỉnh Khánh Hòa nói chung, tăng khả năng kết nối giao thông, vận chuyển hàng hóa liên vùng với các tỉnh Ninh Thuận và Lâm Đồng. Tăng cường quốc phòng, an ninh trong khu vực, tạo thành mạng lưới giao thông cơ động thông suốt trong mọi tình huống để bảo đảm an ninh, quốc phòng; phục vụ hiệu quả công tác tuần tra, kiểm soát, quản lý, bảo vệ rừng.
Dự án thực hiện trên địa bàn 2 huyện Khánh Sơn và Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa với quy mô đầu tư khoảng 56,9 km đường cấp III miền núi, tốc độ thiết kế là 60 km/h. Đoạn qua địa hình khó khăn, hiểm trở, độ dốc cao, gấp khúc tốc độ thiết kế là 40 km/h; 2 làn xe, tổng chiều rộng nền 9m, mặt đường rộng 6m, lề đường 2 bên 3m (gia cố lề mỗi bên 1m). Với hình thức đầu tư công, sơ bộ tổng mức đầu tư của Dự án khoảng 1.930 tỷ đồng. Thời gian thực hiện từ năm 2023 đến hết năm 2027.
Chính phủ chỉ đạo triển khai, tổ chức thực hiện, quản lý và khai thác, vận hành Dự án theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm tiến độ, chất lượng công trình. Quản lý, sử dụng vốn và các nguồn lực tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; công khai, minh bạch và hiệu quả, không để trục lợi chính sách.
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết. |
Về nguồn vốn thực hiện Dự án, có ý kiến đại biểu còn băn khoăn với tính khả thi về khả năng cân đối nguồn ngân sách địa phương và đề nghị Chính phủ xác định rõ trách nhiệm của địa phương trong việc bố trí đủ nguồn lực để thực hiện Dự án. Cũng có ý kiến đề nghị bố trí toàn bộ ngân sách trung ương cho Dự án.
UBTVQH thấy rằng, Dự án là tuyến đường có tính chất kết nối liên vùng, có vị trí quan trọng về quân sự, quốc phòng, tạo động lực thúc đẩy phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi.
Vì vậy, Quốc hội đã ưu tiên dành 1.000 tỷ đồng từ nguồn ngân sách Trung ương giai đoạn 2021-2025 để triển khai Dự án. Phần còn lại được bố trí từ ngân sách địa phương 930 tỷ đồng.
Việc bố trí như vậy vừa đảm bảo được khả năng huy động và bố trí ngân sách của địa phương cho Dự án, giảm áp lực đối với nguồn ngân sách trung ương vừa đảm bảo hài hòa và công bằng đối với các địa phương khác.
Đối với cơ chế đặc thù cho Dự án, có ý kiến đề nghị cân nhắc việc Quốc hội ủy quyền UBTVQH quyết định vấn đề phát sinh của Dự án trong thời gian Quốc hội không họp vì chưa được quy định trong Luật Đầu tư công. Nếu có ủy quyền thì chỉ nên ủy quyền cho UBTVQH quyết định điều chỉnh đối với tiêu chí để dự án trở thành dự án quan trọng quốc gia.
UBTVQH thấy rằng, Dự án này có quy mô nhỏ, công trình cấp III, tổng mức đầu tư không lớn nhưng lại thi công qua khu vực địa hình khó khăn, hiểm trở, độ dốc cao, điều kiện thời tiết không thuận lợi.
Vì vậy, nếu được áp dụng cơ chế đặc thù Quốc hội ủy quyền UBTVQH quyết định điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án trong thời gian Quốc hội không họp sẽ tạo thuận lợi cho việc giải quyết những phát sinh nếu có.
Hơn nữa, việc áp dụng cơ chế đặc thù cũng đã được Quốc hội cho phép triển khai đối với một số dự án quan trọng quốc gia. Đồng thời, do pháp luật về đầu tư công chưa quy định cụ thể về việc ủy quyền nên cần thiết phải được quy định trong Nghị quyết của Quốc hội để đảm bảo chặt chẽ về tính pháp lý khi triển khai thực hiện. Nội dung quy định về cơ chế đặc thù được thể hiện tại Điều 4 dự thảo Nghị quyết.