Chuyên gia kinh tế Lê Xuân Nghĩa |
Chia sẻ tại tọa đàm “Dẫn mạch phục hồi tăng trưởng kinh tế” do Báo Đầu tư tổ chức sáng 30/11, TS. Lê Xuân Nghĩa cho rằng, dịch Covid-19 gây rủi ro khá lớn tới nền kinh tế, trong đó có hệ thống các ngân hàng.
Quá nhiều rủi ro phải đối diện
Theo ông Nghĩa, một trong những áp lực ngân hàng đang phải đối mặt đó là sự suy giảm tiền gửi. Thậm chí diễn biến này vẫn xảy ra ngay cả khi nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi.
Cụ thể, thu nhập của người dân tăng không đáng kể, ý thức để dành, phòng ngừa rủi ro của mạnh mẽ hơn, thị trường đầu tư, đầu cơ đang rất biến động nên có thể một bộ phận tiền của dân cư đổ vào các thị trường có khả năng sinh lời cao hơn như chứng khoán, bất động sản, vàng, ngoại tệ…
Một yếu tố khác đó là rủi ro từ lạm phát chi phí đẩy. Đáng chú ý, lạm phát chi phí đẩy khác với lạm phát cầu kéo là làm cho tăng trưởng GDP chậm lại, sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, giá trị gia tăng thấp nên ảnh hưởng xấu đến cho vay và thu hồi nợ của các ngân hàng thương mại.
Vì vậy, nợ xấu của các khoản vay mới sẽ tăng lên, cộng thêm nợ xấu cũ được giãn hoãn theo Thông tư 01, 03, 14 của Ngân hàng Nhà nước, có thể làm cho chất lượng tài sản của các ngân hàng thương mại giảm sút.
"Dự báo, có khoảng 3 triệu tỷ đồng tín dụng (trong tổng số trên 10 triệu tỷ đồng, khoảng trên 30%) nằm trong tình trạng có rủi ro cao", ông Nghĩa chia sẻ.
Thêm một điểm cần lưu ý nữa là tốc độ số hoá của hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam nhanh hơn so với các ngành khác nhưng lại chậm hơn nếu so với ngành ngân hàng nhiều nước trong khu vực, và thấp hơn so với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
Đồng thời, một phần của dịch vụ thanh toán đang bị cạnh tranh khốc liệt bởi các công ty Fintech, các mảng thanh toán lớn dự báo sẽ có sự tham gia của rất nhiều công ty ví điện tử, thanh toán điện tử của nước ngoài vào Việt Nam trong năm 2022.
Do đó, thu nhập từ dịch vụ thanh toán đang là một trong những xu hướng nổi trội của năm 2021 có thể bị chững lại trong năm 2022 và các năm sau. Nếu số hóa vẫn chậm thì vấn đề giảm nhân lực, tiết giảm chi phí hoạt động cũng sẽ gặp khó khăn.
Nhìn chung, ông Nghĩa cho rằng, Thông tư 14 về việc cho phép ngân hàng hoãn, giãn, cơ cấu nợ càng kéo dài thì rủi ro càng được tích tụ, đặc biệt là những ngân hàng cho nhiều các tập đoàn “sân sau” vay. Bởi lẽ, hầu hết các tập đoàn này đều có dòng tiền âm, ngoại trừ dòng tiền tài chính đang được hỗ trợ từ tăng trưởng của thị trường chứng khoán.
Bên cạnh đó, có thể có những khó khăn từ kinh tế vĩ mô như lạm phát chi phí đẩy và sự biến động của tỷ giá hối đoái, về dịch chuyển nguồn nhân lực, lợi tức trái phiếu chính phủ và lãi suất cũng có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nói chung của ngân hàng cũng như hoạt động kinh doanh nguồn vốn.
Biện pháp giải toả áp lực
Với các rủi ro nêu trên, ông Nghĩa đánh giá khả năng chống chọi của ngân hàng đã gần tới điểm cực hạn. Chính phủ cần phải cân nhắc có giải pháp hạn chế việc tham gia của các ngân hàng vào những chính sách có tính chất kích thích nền kinh tế.
"Các biện pháp kích thích nền kinh tế như giảm phí, giảm lãi suất, giãn hoãn nợ đều sẽ tạo ra áp lực rất lớn cho các ngân hàng thương mại trong cả ngắn, trung và dài hạn", vị chuyên gia nhấn mạnh.
Mặt khác, Chính phủ cũng nên có một lộ trình giảm dần giãn hoãn nợ (rút củi đáy nồi), trên cơ sở đó cho phép các ngân hàng thương mại tăng trích lập dự phòng rủi ro, phục hồi lãi suất và phí theo thị trường một cách rõ ràng để các ngân hàng thương mại cân đối dòng tiền, đảm bảo ổn định thanh khoản.
Đồng thời, áp dụng quy chế quản lý ngoại bảng linh hoạt (tái cơ cấu nợ, chuyển nợ thành vốn, xóa nợ….) để từng bước làm sạch bảng cân đối tài sản chuẩn bị cho một chu kỳ hoạt động mới.
Trong hoạt động điều hành của Ngân hàng Nhà nước, cần phải đổi mới căn bản hoạt động tái cấp vốn và nghiệp vụ thị trường mở sao cho các hoạt động này trở thành những hoạt động bình thường, hàng ngày có tính chất thị trường nhằm tạo ra mức độ ảnh hưởng nhanh chóng của chính sách tiền tệ đối với ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế.
Ví dụ như, tái cấp vốn qua đêm nhằm hỗ trợ thanh khoản thường xuyên, qua đó tác động lên toàn bộ lãi suất tiền gửi và cho vay cũng như là tỷ giá hối đoái. Tránh tình trạng như hiện nay, hệ thống điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước chỉ mang tính chất “tỏ thái độ” mà không có tác động “thực thể” thị trường khiến cho các ngân hàng thương mại rơi vào tình trạng khó xử và làm méo mó các hoạt động thị trường.
Nhà điều hành cũng có thể lựa chọn công cụ điều hành chính sách tiền tệ dựa chủ yếu vào nghiệp vụ thị trường mở giống như mô hình của Ngân hàng trung ương châu Âu nhưng phải hoạt động thường xuyên, liên tục và có sức chi phối mạnh mẽ đến hoạt động lãi suất trên thị trường tiền tệ nói chung.
Cuối cùng, ông Nghĩa nhấn mạnh: "Hệ thống ngân hàng rất cần nâng cao năng lực thể chế của cơ quan thanh tra giám sát cả về số lượng, chất lượng hoạt động, quyền lực và trách nhiệm, đặc biệt là công nghệ để đáp ứng được môi trường hoạt động của hệ thống ngân hàng đầy biến động, đan xen giữa khu vực ngân hàng, khu vực sản xuất kinh doanh và khu vực tài chính cũng như môi trường số hoá ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu".