Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên giải trình trước Quốc hội. |
Phát biểu giải trình về những vấn đề tồn tại liên quan đến năng lượng tái tạo chiều 1/6, Bộ trưởng Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho biết, Việt Nam được đánh giá là quốc gia có tiềm năng lớn phát triển điện gió, điện mặt trời, tuy nhiên có nghịch lý là nơi có tiềm năng về nắng và gió lại là nơi có phụ tải thấp. Vì thế, muốn sử dụng hệ thống điện này phải đầu tư khá lớn cho truyền tải lưu trữ điện.
Mặt khác, để duy trì thường xuyên, an toàn hệ thống điện, phải có một số nguồn điện nền ổn định, có khả năng phát 24/24 để bù đắp khi không có nắng, có gió. Ở Việt Nam, điện than, điện dầu, điện khí sinh khối, thủy điện vẫn được xem là điện nền, ở các nước còn có cả điện hạt nhân. Bởi vậy, dù có đắt hơn, phát thải carbon có nhiều hơn thì trong ngắn hạn, các nguồn điện truyền thống vẫn cần được duy trì.
Theo Bộ trưởng, than, dầu khí là những nguyên liệu sơ cấp, được thị trường thế giới ấn định giá. Những năm qua, do đứt gãy nguồn cung, giá cao dẫn đến giá điện cũng cao hơn nếu chưa tính đến phí truyền tải.
Điện gió, mặt trời không tốn tiền mua, giá thành chỉ phụ thuộc vào giá cả công nghệ, thiết bị, trong khi công nghệ thế giới phát triển nhanh, giá thành công nghệ giảm đi hàng năm (trung bình từ 6-8%). Vì thế, giá thành điện năng của năng lượng tái tạo chưa tính giá truyền tải và lưu trữ điện giảm theo thời gian. “Về lâu dài, năng lượng tái tạo sẽ là nguồn rẻ nhất nếu chưa tính phí truyền tải, lưu trữ điện”, Bộ trưởng nói.
Về cơ chế tính giá năng lượng tái tạo, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho biết cơ sở pháp lý là căn cứ vào luật Điện lực, luật Giá và các nghị định của Chính phủ. Bộ Công thương đã xây dựng khung giá được xác định trên cơ sở số liệu thống kê của các nhà máy điện mặt trời, điện gió, so sánh với số liệu của cơ quan năng lượng quốc tế, thực hiện đúng quy trình lấy ý kiến Bộ Tài chính, Ủy ban quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, Hội đồng tư vấn về kết quả thẩm định khung giá…
Theo số liệu giám sát đầu tư của tổ chức quốc tế IRENA thì suất đầu tư dự án điện mặt trời nối lưới giai đoạn 2018 từ 2021 giảm 11%/năm, suất đầu tư điện gió trên bờ nối lưới giảm 6,3%/năm.
Tại Việt Nam, giá FIT 2 ban hành năm 2020 giảm 8 % so với giá FIT 1 ban hành năm 2017. Khung giá phát điện theo Quyết định 21 của Bộ Công Thương ban hành tháng 1/2023 giảm khoảng 7,3 % so với giá FIT 2. “Có thể khẳng định cơ chế giá cho các dự án năng lượng tái tạo chuyển tiếp như khung giá hiện hành là phù hợp với giá thế giới và thực tiễn trong nước”, ông Diên nói.
Nhiều dự án năng lượng tái tạo chưa được đưa vào vận hành. |
Về vấn đề xử lý các dự án điện gió, điện mặt trời không đủ áp giá FIT, Bộ trưởng Công Thương không phủ nhận sự lãng phí nếu hàng chục dự án điện mặt trời, điện gió được đầu tư mà chưa được khai thác sử dụng. Tuy nhiên, để không lãng phí cũng như không bị xem là hợp thức hoá cái sai (thậm chí là vi phạm quy định pháp luật hiện hành) thì rất cần phải có chủ trương của các cấp có thẩm quyền, sự chấp nhận và nỗ lực của các chủ đầu tư, cũng như sự vào cuộc đồng bộ của các ngành chức năng, chính quyền các địa phương.
Theo Bộ trưởng Công Thương, hầu hết các chủ dự án nêu trên đã chạy đua với thời gian để hưởng giá FIT nên bỏ qua hoặc bỏ sót các khâu, các thủ tục theo quy định. Chính sách giá FIT đã hết thời hiệu, được thể hiện ngay trong Quyết định của Thủ tướng Chính phủ chứ không phải dừng đột ngột.
Hiện cả nước có 85 nhà máy đã ký hợp đồng mua bán điện với EVN nhưng không đủ điều kiện hưởng giá FIT, với tổng công suất 4.736MW. Thủ tướng đã chỉ đạo Bộ Công Thương ban hành Thông tư 15, Quyết định 21 quy định phương pháp xác định và khung giá áp dụng cho các dự án năng lượng tái tạo chuyển tiếp. Bộ cũng đã có nhiều văn bản đôn đốc các nhà đầu tư hoàn thành thủ tục, chỉ đạo, hướng dẫn EVN phối hợp với các chủ đầu tư, thoả thuận thống nhất giá điện để sớm đưa các dự án vào vận hành.
Tuy nhiên theo Bộ trưởng, đến ngày 30/3, tức sau 2 tháng khung giá có hiệu lực, chỉ có 1 nhà đầu tư đến nộp hồ sơ. Qua nhiều nỗ lực của Bộ Công Thương, đến ngày 31/5 đã có 59/85 nhà máy với công suất 3.389 MW (chiếm 71,6% số dự án) đã nộp hồ sơ đến EVN, trong đó có 50 dự án đang được đề xuất giá tạm thời bằng 50% khung giá để tiếp tục hoàn thiện các thủ tục. Hiện còn 26 nhà máy với công suất 1.346 MW vẫn chưa gửi hồ sơ.
“Theo chúng tôi biết, các chủ đầu tư không nộp hồ sơ là không muốn đàm phán với EVN trong khung giá Bộ Công Thương ban hành vì cho rằng thấp hoặc chưa hoàn thành các thủ tục pháp lý hoặc nhà máy ở vị trí khó truyền tải điện”, ông Diên cho biết.
Bộ Công Thương đề nghị Quốc hội, Chính phủ sớm cho chủ trương, cơ chế tháo gỡ để Bộ Công Thương, các bộ, ngành và địa phương có cơ sở chỉ đạo giải quyết dứt điểm vấn đề trên, tránh lãng phí nguồn lực, bức xúc cho xã hội, bảo đảm hài hòa lợi ích nhưng các tổ chức và cá nhân thực thi nhiệm vụ này không bị xem là vi phạm pháp luật.