Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng chủ trì Hội nghị điều phối vùng Tây Nguyên - Ảnh: MPI |
Chiều 30/11, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng chủ trì Hội nghị điều phối vùng Tây Nguyên về Quy hoạch vùng Tây Nguyên thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Để hoạch định chiến lược phát triển dài hạn cho vùng Tây Nguyên, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Nhằm tiếp tục hiện thực hóa các quan điểm, mục tiêu, định hướng phát triển Vùng đề ra tại Nghị quyết của Bộ Chính trị, cụ thể hóa các quy hoạch cấp quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương trong Vùng cùng các cơ quan, tổ chức có liên quan tổ chức lập Quy hoạch vùng Tây Nguyên thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Phát biểu tại hội nghị, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh, bản Quy hoạch vùng này có ý nghĩa quan trọng, giúp "mở đường", chủ động kiến tạo phát triển và tăng cường liên kết vùng, với tư duy mới, tầm nhìn mới để tạo ra cơ hội mới, động lực phát triển mới và giá trị mới cho vùng.
Trong đó, chú trọng giải quyết các vấn đề liên ngành, liên vùng, liên tỉnh, tái tổ chức không gian phát triển vùng và khai thác, phát huy có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển vùng nhanh, bền vững.
Quy hoạch vùng cũng là căn cứ quan trọng để đề xuất kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2026-2030, đặc biệt là các dự án lớn, có tính liên vùng, Bộ trưởng nhấn mạnh.
Xác định rõ vị trí vai trò của quy hoạch, Bộ Kế hoạch và Đầu tư triển khai xây dựng Quy hoạch vùng Tây Nguyên thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 nghiêm túc, bài bản, công phu, khoa học. Đây cũng là bản quy hoạch vùng được tổ chức lập theo cách tiếp cận tích hợp đa ngành theo quy định của Luật Quy hoạch.
Thứ nhất, Quy hoạch khẳng định quan điểm phải đổi mới tư duy về phát triển vùng, chủ động nắm bắt, tận dụng các cơ hội, tập trung nguồn lực giải quyết các điểm nghẽn, mâu thuẫn, xung đột, cản trở trong phát triển. Trong đó, việc quan trọng là phải tạo các cơ chế, chính sách để hình thành các động lực tăng trưởng mới, không gian phát triển mới.
Thứ hai, Quy hoạch vùng nhấn mạnh yêu cầu phát triển kinh tế nhanh và bền vững dựa trên khai thác các nguồn lực và động lực tăng trưởng mới một cách bền vững. Chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp hiệu quả cao, dựa trên ứng dụng công nghệ cao và chuyển đổi số.
Phát triển kinh tế phải có trọng tâm trọng điểm tập trung vào các ngành có lợi thế như: nông nghiệp, du lịch, công nghiệp chế biến, năng lượng tái tạo. Từng bước tái cơ cấu và phát triển kinh tế vùng theo hướng ưu tiên phát triển các ngành kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.
Đưa văn hóa Tây Nguyên trở thành động lực, nền tảng cho phát triển và hội nhập của vùng. Bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa, giá trị truyền thống, bản sắc văn hóa của các dân tộc đồng bào thiểu số.
Bảo đảm an ninh, quốc phòng là nhiệm vụ hàng đầu của Tây Nguyên với cả nước. Xây dựng và phát triển vùng Tây Nguyên phải kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế văn hóa, xã hội và bảo vệ tài nguyên, môi trường gắn chặt với quốc phòng, an ninh và đối ngoại.
Thứ ba, tổ chức không gian vùng được xác lập trên cơ sở tuân thủ các không gian bảo tồn tự nhiên, sinh thái, môi trường; phát huy lợi thế và điều kiện phát triển đặc thù của từng tiểu vùng.
Phát triển vùng Tây Nguyên theo mô hình "3 cực – 3 tiểu vùng – 5 hành lang". Trong đó 3 cực phát triển gồm: TP Pleiku, TP Buôn Ma Thuột và TP Đà Lạt.
3 tiểu vùng gồm: Tiểu vùng Bắc Tây Nguyên (gồm có 2 tỉnh là Kon Tum và Gia Lai); Tiểu vùng Trung Tây Nguyên (gồm 1 tỉnh là Đắk Lắk); Tiểu vùng Nam Tây Nguyên ( gồm có 2 tỉnh Đắk Nông và Lâm Đồng).
5 hành lang kinh tế gồm: Hành lang kinh tế Đông Tây; Hành lang kinh tế Bờ Y – Pleiku – Quy Nhơn; Hành lang Mundulkiri – Đắk Lắk – Phú Yên; Hành lang kinh tế dọc cao tốc Buôn Ma Thuột – Khánh Hòa; Hành lang kinh tế dọc cao tốc Dầu Giây – Đà Lạt – Nha Trang; Hành lang kinh tế Bu Prăng – Gia Nghĩa – Bảo Lộc – Bình Thuận.
Thứ tư, Quy hoạch vùng hướng tới thúc đẩy hình thành các trung tâm kinh tế tổng hợp, chuyên ngành của vùng theo lợi thế và vị thế để trở thành các cực tăng trưởng của vùng.
Phát triển đô thị và các điểm dân cư nông thôn phù hợp với các điều kiện đặc trưng về tự nhiên, bản sắc văn hóa. Ưu tiên bố trí ổn định các điểm dân cư của đồng bào dân tộc thiểu số, phù hợp với tập quán và phương thức sản xuất mới. Đảm bảo, giải quyết căn bản vấn đề đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Thứ năm, Quy hoạch vùng đưa ra các phương hướng phát triển kết cấu hạ tầng nhằm hướng tới mục tiêu kết cấu hạ tầng Tây Nguyên được kết nối đồng bộ trong đó hạ tầng số, hạ tầng giao thông là các nền tảng quan trọng thúc đẩy Tây Nguyên kết nối với các trung tâm kinh tế lớn của cả nước, hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ sáu, tiếp tục duy trì ổn định các vườn quốc gia, khu dự trữ thiên nhiên, khu bảo tồn loài và sinh cảnh, khu rừng lịch sử cảnh quan có giá trị đa dạng sinh học cao; bảo tồn nguồn gen động thực vật rừng quý hiếm trong các khu rừng đặc dụng.
Phát triển rừng sản xuất: Trồng rừng nguyên liệu, nông lâm kết hợp, lâm sản ngoài gỗ; lâm nghiệp cộng đồng, dân tộc thiểu số; phát triển lâm nghiệp đô thị; Phát triển công nghiệp chế biến, thương mại lâm sản. Từng bước thay thế nguồn nước ngầm bằng nguồn nước mặt.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh, Hội nghị Hội đồng điều phối vùng Tây Nguyên lần thứ hai này là bước tiếp theo rất quan trọng và hết sức cần thiết để cơ quan lập quy hoạch tiếp tục lắng nghe ý kiến tham gia để sớm hoàn thiện nội dung quy hoạch vùng. Tháo gỡ những "nút thắt", "điểm nghẽn" phát triển của vùng trong thời gian vừa qua và đề ra mục tiêu, phương án phát triển cũng như giải pháp tổ chức thực hiện trong thời gian tới.
Trên cơ sở ý kiến của Hội đồng điều phối vùng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tập trung nghiên cứu, tiếp thu và hoàn thiện hồ sơ Quy hoạch vùng để thẩm định, dự kiến trình phê duyệt trong tháng 12/2023.
Bản Quy hoạch vùng Tây Nguyên với tư duy, tầm nhìn mới, mở ra cơ hội, không gian phát triển mới đi vào cuộc sống sẽ là cơ sở đặc biệt quan trọng để các cấp, các ngành, địa phương nghiên cứu xây dựng và triển khai thực hiện những chính sách, kế hoạch, chương trình phát triển, các dự án đầu tư và góp phần giúp cho vùng Tây Nguyên - nóc nhà Đông Dương, "phên dậu phía Tây của Tổ quốc" sẽ có những bước phát triển phát triển nhanh và bền vững.
Vùng Tây Nguyên là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh của cả nước. Trong quá trình phát triển, các địa phương trong vùng đã nhận thức ngày càng rõ hơn về vai trò, vị trí, tầm quan trọng đối với vùng. Nhiều điểm nghẽn đối với phát triển được khơi thông, tiềm năng, lợi thế của vùng và từng địa phương trong vùng từng bước được phát huy, đạt được nhiều kết quả quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực.
Tuy nhiên, phát triển của vùng trong thời gian vừa qua còn hạn chế: Tăng trưởng kinh tế thiếu bền vững, có xu hướng chậm lại; GRDP bình quân đầu người vẫn ở mức thấp nhất trong 6 vùng kinh tế - xã hội. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài rất thấp.
Bên cạnh đó, giảm nghèo chưa bền vững, số hộ nghèo, cận nghèo lớn, nguy cơ tái nghèo còn cao; liên kết nội vùng và liên vùng chưa chặt chẽ, còn hình thức; mạng lưới kết cấu hạ tầng vùng, liên vùng thiếu và yếu, nhất là hạ tầng chiến lược (giao thông, y tế, giáo dục, hạ tầng số) chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển,...