Ảnh minh họa: Bộ Công Thương. |
Dự thảo Nghị định nêu rõ, Nghị định này áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư dự án nhà máy điện sử dụng khí thiên nhiên và LNG, cụ thể là: đơn vị phát điện sở hữu nhà máy điện khí đấu nối vào hệ thống điện quốc gia; các đơn vị điện lực bao gồm: Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, đơn vị điều độ hệ thống điện và điều hành giao dịch thị trường điện.
Chuyển ngang giá khí sang giá điện cho các dự án sử dụng LNG nhập khẩu
Theo dự thảo Nghị định, với các nhà máy điện khí sử dụng LNG nhập khẩu, các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư dự án nhà máy điện sử dụng LNG phải chủ động thực hiện các dự án đã có trong Quy hoạch điện theo đúng quy định, bảo đảm hiệu quả; thống nhất việc các doanh nghiệp phải chủ động đàm phán, ký kết và chịu trách nhiệm về các hợp đồng, thỏa thuận thương mại.
Chính phủ đồng ý nguyên tắc cơ chế chuyển ngang giá khí sang giá điện của các nhà máy điện.
Trong giai đoạn đến năm 2030, Chính phủ quy định tỷ lệ điện năng qua hợp đồng mua bán điện (Qc) dài hạn ở mức tối thiểu bằng 70% trong thời gian trả nợ của dự án nhà máy điện nhưng không quá 7 năm nhằm đảm bảo khả thi trong việc thu hút đầu tư, tránh tác động mạnh lên giá bán lẻ cũng như đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng với các loại hình nguồn điện khác trên thị trường điện.
Trong khi đó, với các nhà máy điện khí sử dụng khí tự nhiên trong nước, Chính phủ đồng ý nguyên tắc chuyển ngang giá khí sang giá điện của các nhà máy điện đối với những dự án trọng điểm về dầu khí góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, an ninh quốc phòng và bảo vệ chủ quyền Việt Nam.
Bộ Công Thương hướng dẫn cơ chế tiêu thụ sản lượng khí thượng nguồn mỏ khí Cá Voi Xanh, khí Lô B.
Các nội dung chính áp dụng trong hợp đồng mua bán điện
Dự thảo Nghị định cũng đề xuất quy định, đơn vị phát điện ký hợp đồng với Tập đoàn Điện lực Việt Nam theo mẫu do Bộ Công Thương ban hành để tham gia thị trường bán buôn điện cạnh tranh và bán điện năng của nhà máy điện lên thị trường điện giao ngay.
Chi phí mua điện của các nhà máy điện sử dụng khí tự nhiên khai thác trong nước, LNG nhập khẩu là các chi phí hợp lý, hợp lệ và được tính toán điều chỉnh trong giá bán lẻ điện.
Ngôn ngữ hợp đồng sử dụng là tiếng Việt. Bên mua và Bên bán có thể thỏa thuận bổ sung hợp đồng với ngôn ngữ sử dụng bằng tiếng Anh, các bên có thể thỏa thuận tiếng Anh sẽ được ưu tiên áp dụng.
Luật điều chỉnh và giải quyết tranh chấp tuân thủ theo quy định pháp luật Việt Nam. Các bên có thể thỏa thuận để áp dụng luật nước ngoài phù hợp với những vấn đề chưa được pháp luật Việt Nam quy định đầy đủ.
Giá điện trong hợp đồng mua bán điện được tính bằng USD, việc thanh toán được thực hiện bằng đồng Việt Nam.
Trước đó, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã báo cáo các cơ quan chức năng việc các nhà đầu tư điện khí LNG nhập khẩu muốn được cam kết bao tiêu Qc ở mức 72-90% trong toàn bộ thời hạn hợp đồng. Yêu cầu này xuất phát từ các bên cho vay nhằm đảm bảo dòng tiền ổn định để chủ đầu tư trả nợ.
Các bên cung ứng và vận chuyển nhiên liệu LNG cũng thường yêu cầu quy định tỷ lệ huy động để đảm bảo ổn định về lượng và giá nhiên liệu trong dài hạn. Việc này còn giúp họ có thể lên kế hoạch vận tải đường biển quốc tế, đặc biệt khi Việt Nam là thị trường mới và nhỏ với các nhà cung ứng LNG quốc tế.
Tuy nhiên, EVN cho rằng, chấp thuận điều kiện này sẽ gây rủi ro làm tăng giá điện.
LNG có giá thành cao, ở mức 12-14 USD cho 1 triệu BTU (USD/triệu BTU) khi nhập khẩu về đến cảng của Việt Nam. Theo đó, giá thành phát điện của nhà máy điện khí sử dụng nhiên liệu LNG nhập khẩu sẽ ở mức 2.400 - 2.800 đồng/kWh, cao hơn nhiều so với các nguồn điện khác.
Việc chấp nhận tỷ lệ điện năng qua hợp đồng mua bán dài hạn ở mức cao như đề nghị của chủ đầu tư được EVN cho rằng, sẽ dẫn tới tình trạng những năm nhu cầu sử dụng điện không cao sẽ tạo thành rủi ro tài chính với EVN.
Để tránh nguy cơ thiếu điện, EVN cho rằng cần xác định rõ một tỷ lệ điện năng (Qc) qua hợp đồng dài hạn nhằm đảm bảo hài hòa lợi ích các bên là cần thiết.
Do đó, tập đoàn này kiến nghị Thủ tướng quyết định tỷ lệ ở mức phù hợp trong giai đoạn trả nợ của dự án. Điều này nhằm đảm bảo khả thi trong thu hút đầu tư các dự án điện khí LNG, tránh tác động mạnh lên giá bán lẻ và đảm bảo cạnh tranh bình đẳng giữa các loại hình nguồn khác.
"Mức này cần được quyết định bởi cơ quan nhà nước, để áp dụng chung cho các dự án", EVN nêu và đề xuất con số này có thể khoảng 65%.
Theo Quy hoạch điện VIII đã được phê duyệt, tổng công suất đặt các nguồn điện đến 2030 là 150,49GW (gần gấp đôi tổng công suất đặt hiện nay, khoảng 80GW).
Trong đó tổng công suất các nguồn điện khí phải đầu tư xây dựng mới là 30.424 MW (khí trong nước 10 dự án với tổng công suất 7.900MW và LNG có 13 dự án với tổng công suất 22.824MW).