Theo Quyết định, tổ chức, cá nhân trực tiếp nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất chỉ được nhập khẩu cho cơ sở của mình theo đúng công suất thiết kế để sản xuất ra các sản phẩm, hàng hóa.
Về điều khoản chuyển tiếp, phế liệu giấy có mã HS 4707 90 00 được phép nhập khẩu từ nước ngoài theo giấy phép môi trường thành phần (giấy xác nhận đủ điều kiện về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất) đã được cơ quan có thẩm quyền cấp trước ngày 1/6/2023. Phế liệu có mã HS trên sẽ được tiếp tục nhập khẩu đến hết hiệu lực của giấy phép.
Các phế liệu và mẩu vụn của nhựa có mã HS 3915 90 00 được phép nhập khẩu theo giấy phép môi trường thành phần hoặc giấy phép môi trường đã được cơ quan có thẩm quyền cấp trước ngày 1/6/2023. Các loại phế liệu này sẽ được tiếp tục nhập khẩu đến hết hiệu lực của giấy phép theo các mã HS tương ứng quy định trong Danh mục.
Các loại phế liệu được phép nhập khẩu theo giấy phép môi trường thành phần hoặc giấy phép môi trường đã được cơ quan có thẩm quyền cấp trước ngày 1/6/2023 có tên gọi khác (nhưng mã HS không thay đổi) so với Quyết định này thì được tiếp tục nhập khẩu đến khi hết hiệu lực của giấy phép.
Quyết định trên sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 1/6/2023 và thay thế Quyết định số 28/2020/QĐ-TTg ngày 24/9/2020 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục phế liệu được phép nhập khẩu từ nước ngoài làm nguyên liệu sản xuất.
Kể từ ngày 1/6/2023, việc nhập khẩu xỉ hạt nhỏ (xỉ cát) từ công nghiệp luyện sắt hoặc thép (có mã HS 2618 00 00) làm nguyên liệu sản xuất xi măng được thực hiện theo quy định của pháp luật sản phẩm, hàng hóa về vật liệu xây dựng.
Theo Quyết định, phế liệu được phép nhập khẩu từ nước ngoài làm nguyên liệu sản xuất bao gồm: Phế liệu sắt, thép, gang; phế liệu và mẩu vụn của nhựa (plastic); phế liệu giấy; phế liệu thủy tinh; phế liệu kim loại màu.
Trong đó, phế liệu sắt, thép, gang gồm: Phế liệu và mảnh vụn của gang đúc (mã HS 7204 10 00); phế liệu và mảnh vụn của thép hợp kim bằng thép không gỉ (mã HS 7204 21 00); phế liệu và mảnh vụn của thép hợp kim loại khác (mã HS 7204 29 00); phế liệu và mảnh vụn của sắt hoặc thép tráng thiếc (mã HS 7204 30 00); phế liệu và mảnh vụn khác: Phoi tiện, phoi bào, mảnh vỡ, vảy cán, mạt cưa, mạt giũa, phoi cắt và bavia, đã hoặc chưa được ép thành khối hoặc đóng thành kiện, bánh, bó (mã HS 7204 41 00); phế liệu và mảnh vụn khác: Loại khác (mã HS 7204 49 00).
Phế liệu và mẩu vụn của nhựa (plastic) gồm: Từ các polyme từ etylen: Dạng xốp, không cứng (mã HS 3915 10 10); từ các polyme từ etylen: Loại khác (mã HS 3915 10 90); từ các polyme từ styren: Loại khác: Polyme Styren (PS), Acrylonitrin Butadien Styren (ABS); High Impact Polystyrene (HIPS); Expanded Polystyrene (EPS) (mã HS 3915 20 90)...
Phế liệu giấy bao gồm: Giấy kraft hoặc bìa kraft hoặc giấy hoặc bìa sóng, chưa tẩy trắng (mã HS 4707 10 00); giấy hoặc bìa khác được làm chủ yếu bằng bột giấy thu được từ quá trình hóa học đã tẩy trắng, chưa nhuộm màu toàn bộ (mã HS 4707 20 00); giấy hoặc bìa được làm chủ yếu bằng bột giấy thu được từ quá trình cơ học (ví dụ, giấy in báo, tạp chí và các ấn phẩm tương tự) (mã HS 4707 30 00).
Về tình hình nhập khẩu phế liệu, trong nửa đầu tháng 5/2023, theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, Việt Nam nhập khẩu 146.393 tấn phế liệu sắt thép, đạt trị giá 55,42 triệu USD, giảm lần lượt 50% về lượng và 60% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.
Lũy kế từ đầu năm đến ngày 15/5, Việt Nam nhập khẩu 1,98 triệu tấn phế liệu sắt thép, đạt 797,6 triệu USD, tăng 20% về lượng nhưng lại giảm 0,7% so với cùng kỳ năm 2022.
Nửa đầu tháng 5, Việt Nam nhập khẩu 95.598 mặt hàng giấy các loại, đạt 84,88 triệu USD, giảm 5% về lượng và 16% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.
Lũy kế từ đầu năm đến 15/5, lượng và trị giá nhập khẩu giấy các loại của Việt Nam đạt 770.386 tấn với 709,4 triệu USD, giảm 9% về lượng và 15% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.