Tháo nút thắt để thị trường điện khí LNG phát triển bền vững

NĂNG LƯỢNG Việt nAM
22:25 - 22/11/2023
Toàn cảnh diễn đàn. Ảnh: Thu Thảo.
Toàn cảnh diễn đàn. Ảnh: Thu Thảo.
0:00 / 0:00
0:00
Thiếu cơ chế chính sách, thiếu vốn đầu tư, thiếu kinh nghiệm triển khai... đang khiến điện khí, nguồn điện sẽ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng công suất nguồn điện của Việt Nam gặp nhiều thách thức.

Việt Nam sẽ cần nhập khẩu khoảng hơn 14 tỷ m3 LNG vào năm 2030

Phát biểu tại Diễn đàn Phát triển thị trường khí Việt Nam với chủ đề “Phát triển điện khí LNG - Xu hướng tất yếu trong chính sách đảm bảo an ninh năng lượng” do Báo Sài Gòn Giải Phóng tổ chức ngày 22/11, ông Bùi Quốc Hùng, Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương) đánh giá, những năm gần đây, nhu cầu LNG trên thế giới tăng với nhịp độ bình quân 6,3%/năm. Công suất LNG trên thế giới tăng từ 340 triệu tấn/năm (năm 2017) lên 453 triệu tấn/năm vào năm 2022.

Tại Việt Nam, theo tính toán, nhu cầu nhập khẩu LNG sẽ tăng lên, đạt khoảng 14 -18 tỷ m3 vào năm 2030 và khoảng 13 - 16 tỷ m3 vào năm 2045. Đánh giá về thuận lợi của điện khí LNG tại Việt Nam, ông Bùi Quốc Hùng cho hay, Đảng, Chính phủ, các bộ, ngành đều rất quan tâm đến việc phát triển thị trường này.

"Đây là cơ sở để phát triển hành lang pháp lý thúc đẩy sự phát triển của loại nhiên liệu này tại Việt Nam. Chính phủ đang trong quá trình xây dựng và ban hành các cơ chế chính sách để có thể đưa LNG vào Việt Nam", ông Bùi Quốc Hùng nhận định.

"Phát triển mạnh mẽ nhiệt điện khí LNG trong tương lai chắc chắn sẽ giúp ngành điện phát triển xanh hơn và hạn chế sự phụ thuộc vào các nhà máy nhiệt điện than vốn chiếm tỉ lệ khá cao trong hệ thống hiện nay" Ông Bùi Quốc Hùng, Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo

Cũng theo đại diện Bộ Công Thương, ưu điểm của loại hình điện khí LNG là đảm bảo cấp điện ổn định và giảm thiểu tác động tới môi trường. Nhiệt điện khí với khả năng chạy phủ đỉnh sẽ là nguồn công suất cần thiết để bổ trợ cho các nguồn điện tái tạo không ổn định. Điện khí LNG có khả năng đạt hơn 90% hệ số công suất khi cần thiết, không gặp phải tình trạng gián đoạn và phụ thuộc vào thiên nhiên như điện gió hay điện mặt trời.

Điện khí có nhiều ưu điểm trong việc giảm phát thải khí nhà kính là CO2 và NOx (giảm khoảng 40% khí CO2 và khoảng 90% khí NOx so với các nhà máy nhiệt điện than và dầu) xả ra môi trường, không thải bụi và là nguồn điện chạy nền có khả năng thay thế toàn bộ các nhà máy nhiệt điện than trong tương lai.

Có nhiều địa điểm thuận lợi về mặt hạ tầng để phát triển các dự án LNG tại Việt Nam là một trong những lợi thế để có thể hình thành các trung tâm nhiệt điện sử dụng LNG quy mô lớn, tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế - xã hội nhiều địa phương trong tương lai. Theo thống kê, hiện các địa phương đề xuất phát triển khoảng 140.000 MW (tập trung chủ yếu tại miền Trung và miền Nam) với khoảng hơn 30 vị trí đề xuất trải dài từ Bắc vào Nam.

Ngoài ra, thị trường cung cấp LNG trên thế giới trong thời gian tới dồi dào với giá cả cạnh tranh. Hiện nay các nước như Mỹ, Nga, Australia đang xây dựng nhiều nhà máy sản xuất LNG đảm bảo cung cấp đủ cho nhu cầu tiêu thụ trên thế giới. Nhiều nhà đầu tư quan tâm sẽ đảm bảo tính cạnh tranh và có nhiều sự lựa chọn tốt cho dự án.

Nhiều vướng mắc ngăn thị trường LNG phát triển

Về khó khăn thách thức của thị trường LNG tại Việt Nam, lãnh đạo Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo cho biết, việc nhập khẩu LNG phải theo các thông lệ mua bán LNG quốc tế. Việt Nam hiện cũng chưa có bộ tiêu chuẩn kỹ thuật liên quan đến thiết kế, xây dựng và vận hành các cơ sở hạ tầng phục vụ nhập khẩu. Bên cạnh đó, khuôn khổ pháp lý hiện hành cho các dự án LNG cho điện ở Việt Nam vẫn chưa được xây dựng hoàn chỉnh.

Thông tin đến diễn đàn, ông Bùi Quốc Hùng cho biết, giá khí hóa lỏng LNG đã tăng rất mạnh thời gian qua, là trở ngại khi ký các hợp đồng mua bán điện (PPA) giữa chủ đầu tư và Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) trong tương lai, do EVN phải mua điện giá cao và bán điện giá rẻ.

Hiện dự án điện khí Nhơn Trạch 3 và 4 đang phấn đấu đưa vào vận hành từ năm 2025, đến nay đã đạt tiến độ hơn 60%, nhưng chưa thể đàm phán hợp đồng mua bán điện, giá điện. Dự án điện khí LNG cần vốn đầu tư rất lớn, lên tới hàng tỷ USD, nên cần đảm bảo hợp đồng bao tiêu sản lượng hàng năm, được ký hợp đồng dài hạn.

“Trong tổng sơ đồ tính toán thì tổng vốn đầu tư là 57 tỷ USD. Với mức đầu tư này, có tiền trong tay cũng chưa thể thực hiện được, chưa biết thu xếp thế nào, trong khi sắp hết năm 2023”, ông Hùng nhận định.

Cùng bàn về vấn đề này, PGS TS Ngô Trí Long, chuyên gia kinh tế của Bộ Tài chính cho rằng việc phát triển cung và cầu, giá cả về khí LNG như thế nào là rất quan trọng. Hiện nay, thị trường năng lượng nói chung đang gặp vướng mắc lớn về giá, đây là “điểm nghẽn” khi đầu vào thì theo giá thị trường, còn đầu ra thì theo giá điều tiết của Nhà nước.

Theo ông Ngô Trí Long, giá nhiên liệu LNG đầu vào chiếm tới 70-80% giá thành điện bán ra, nên nếu sử dụng nhiên liệu giá cao thì dự án khó có thể tham gia thị trường điện. Do đó, ông cho rằng cần có cơ chế giá phù hợp cho thị trường LNG Việt Nam trong sản xuất điện.

“Trong bối cảnh hiện nay, nếu không có bảo lãnh Chính phủ, vừa không có bao tiêu điện, doanh nghiệp sản xuất điện khí khó có thể triển khai các dự án đúng tiến độ và hiệu quả. Nếu không giải được bài toán trên, mọi dự án LNG không thể triển khai”, ông Long nói.

PGS TS Ngô Trí Long, chuyên gia kinh tế của Bộ Tài chính phát biểu tại diễn đàn. Nguồn: SGGP.

PGS TS Ngô Trí Long, chuyên gia kinh tế của Bộ Tài chính phát biểu tại diễn đàn. Nguồn: SGGP.

Ông Ngô Trí Long khuyến nghị cần nghiên cứu thành lập một hoặc một vài trung tâm đầu mối chuyên nhập khẩu LNG cho các nhà máy điện, được quản lý và giám sát của Nhà nước để đảm bảo tính công khai, minh bạch, chặt chẽ thị trường LNG trong nước. Đồng thời, cần xem xét giảm thuế nhập khẩu LNG và các thiết bị, máy móc xây dựng nhà máy điện; Giảm thuế thu nhập cho doanh nghiệp trong ngành.

Ngoài ra, còn một khó khăn nữa là số lượng kho chứa LNG tại Việt Nam hiện nay đang rất hạn chế. Theo Quy hoạch điện VIII, sẽ có 15 dự án nhà máy nhiệt điện LNG nằm phân bố rải rác trên cả nước. Trong đó, chỉ tính đến năm 2030, để đáp ứng khí cho 13 dự án nhiệt điện LNG với tổng công suất 22.400MW, mỗi năm cần tổng công suất kho chứa đạt khoảng 15-18 triệu tấn LNG. Trong khi hiện nay, Việt Nam chỉ có duy nhất 1 dự án kho chứa LNG tại Thị Vải với công suất 1 triệu tấn LNG/năm.

Điều này cho thấy, việc nhập khẩu LNG cho sản xuất điện là xu hướng tất yếu không chỉ để cung cấp cho các dự án điện khí LNG mới, mà còn cấp thiết bù đắp nguồn khí cho các nhà máy điện khí hiện hữu có nguy cơ bị thiếu hụt nhiên liệu trong tương lai, khi các mỏ khí khai thác trong nước đang suy giảm nhanh qua từng năm.

Để đạt được các mục tiêu đề ra, PGS TS Đinh Trọng Thịnh, chuyên gia kinh tế Học viện Tài chính cho rằng, cần quy hoạch đồng bộ, tập trung các dự án kho cảng nhập khẩu LNG để tiết kiệm nguồn lực xã hội, phát triển kinh tế và từ đó thúc đẩy thị trường LNG trong nước phát triển.

Ở phía góc độ doanh nghiệp, từ thực tế triển khai các dự án LNG trong thời gian qua, ông Huỳnh Quang Hải, Phó tổng giám đốc Tổng công ty Khí Việt Nam (PV GAS) cho rằng, vẫn còn một số tồn tại, thách thức trong việc triển khai Quy hoạch điện VIII.

"Trong đó, khó khăn lớn nhất là cơ chế chính sách sử dụng LNG cho phát điện. Hiện chúng ta chưa có cơ chế chuyển ngang giá khí LNG tái hóa từ hợp đồng mua bán khí sang hợp đồng mua bán điện, phê duyệt cước phí qua kho và đường ống đưa LNG đến nhà máy điện, nguyên tắc phân bổ LNG nhập khẩu cùng với các nguồn khí nội địa cho các nhà máy điện.

Chúng ta cũng chưa có đầy đủ các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia về LNG để đảm bảo việc xây dựng hạ tầng kỹ thuật LNG đảm bảo an toàn phù hợp với các thông lệ quốc tế", ông Hải nói.

Ông Huỳnh Quang Hải, Phó tổng giám đốc Tổng công ty Khí Việt Nam (PV GAS) phát biểu tại diễn đàn. Nguồn: SGGP.

Ông Huỳnh Quang Hải, Phó tổng giám đốc Tổng công ty Khí Việt Nam (PV GAS) phát biểu tại diễn đàn. Nguồn: SGGP.

Vì vậy, lãnh đạo PV GAS cho rằng cần phải rà soát, cập nhật, bổ sung và xây dựng đầy đủ các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia về LNG, tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho việc thực hiện phát triển các dự án điện khí (LNG) và thị trường LNG trong tương lai.

Về cơ chế chính sách, ông Huỳnh Quang Hải kiến nghị, Chính phủ cần xây dựng các cơ chế chính sách liên quan đến cấp khí LNG tái hóa cho các nhà máy điện như: Cơ chế chuyển ngang giá khí LNG tái hóa và bao tiêu khối lượng khí từ hợp đồng mua bán khí sang hợp đồng mua bán điện; Phê duyệt cước phí qua kho, cước phí đường ống.

Bên cạnh đó, để tối ưu đầu tư hạ tầng kho chứa, cảng biển giúp giảm cước phí, giá khí LNG tái hóa và giảm giá thành phát điện, các cơ quan quản lý cần xem xét triển khai xây dựng các kho LNG theo mô hình “Kho cảng LNG trung tâm cung cấp cho các trung tâm nhiệt điện vệ tinh”. Đồng thời, cần lựa chọn chủ đầu tư có đủ năng lực về tài chính và kinh nghiệm để triển khai thực hiện hiệu quả các dự án trong quy hoạch.

Tin liên quan

Đọc tiếp