Ảnh minh họa. |
Thông tin từ báo cáo phân tích tình hình chậm trả trái phiếu doanh nghiệp của FiinRatings, cập nhật ngày 3/4.
Trong số các tổ chức chậm thanh toán nợ trái phiếu đó có 65 tổ chức vi phạm nghĩa vụ nợ và 4 tổ chức đến hạn nhưng đã được tái cơ cấu nợ; 43 doanh nghiệp trong ngành bất động sản với tổng giá trị chậm trả nợ ở mức 78.900 tỷ đồng, chiếm 83,6% tổng giá trái phiếu chậm trả.
69 tổ chức phát hành trên hiện có tổng nợ vay 233.700 tỷ đồng tại 31/12/2022, trong đó tổng giá trị trái phiếu đang lưu hành ở mức 169.700 tỷ đồng và phần còn lại 64.000 tỷ đồng là vay tín dụng ngân hàng và nợ khác.
Trái phiếu đã ở tình huống chậm trả chiếm 37% tổng giá trị trái phiếu đang lưu hành của các doanh nghiệp này. Phần trái phiếu còn lại chưa đến hạn thanh toán là 75.286 tỷ đồng và có kỳ đáo hạn chủ yếu vào năm 2023 (ước tính 30.200 tỷ đồng) và 2024 (ước tính 21.900 tỷ đồng).
Bất động sản là ngành có tỷ lệ nợ xấu trái phiếu ở mức 20,17%, cao thứ hai sau ngành năng lượng. Tuy nhiên, ngành bất động sản có quy mô lưu hành lớn nhất ở mức 396.300 tỷ đồng, chiếm 33,8% tổng giá trị lưu hành.
Thực tế, trong tổng số 69 tổ chức phát hành chậm trả nợ trái phiếu thì số các doanh nghiệp trong ngành bất động sản chiếm tới 62,3%. Ngành năng lượng mặc dù có tỷ lệ nợ xấu trái phiếu ở mức cao nhất, lên tới 63,1% nhưng ở quy mô rất nhỏ và có tính tập trung vào một số ít doanh nghiệp, chiếm 0,3% tổng giá trị trái phiếu lưu hành.
Tỷ lệ chậm trả trái phiếu theo ngành cập nhật đến 17/3/2023. |
Dòng tiền không được tập trung đầu tư vào tài sản sinh lời
Phân tích của FiinRatings dựa trên số liệu từ báo cáo tài chính của 33 tổ chức phát hành bất động sản chậm trả cho thấy, đòn bẩy tài chính của các doanh nghiệp này tăng gấp 9,5 lần so với thời điểm cuối năm 2017. Tuy nhiên, tài sản hữu hình - thường là tài sản sinh lời của các công ty bất động sản có mức tăng khiêm tốn từ 25.000 tỷ đồng (2017) lên 33.000 tỷ đồng (2021).
Trong khi đó, khoản phải thu (thường đến từ hợp đồng cho vay các bên liên quan) và khoản đầu tư dài hạn (thường là khoản đầu tư vào các công ty con và liên kết) lại tăng gấp hơn 4 lần. Vì dòng tiền không được tập trung đầu tư vào tài sản sinh lời nên lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh chính không tăng trưởng tương xứng với nợ vay.
Khả năng trả nợ của các doanh nghiệp này giảm mạnh do EBITDA chỉ tăng 4 lần trong khi nợ vay tăng 15 lần. Trong một thời gian dài, nợ vay trên tương quan với lợi nhuận EBITDA (lợi nhuận không gần với dòng tiền tạo ra mới trong kỳ) ở mức rất cao, lên tới 30,5 vào năm 2020 lần và 23,5 lần vào năm 2021. Đây là mức quá cao so với kỳ hạn bình quân của một trái phiếu và các nghĩa vụ nợ của các doanh nghiệp này.
Theo FiinRatings, quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ hiện ở mức 1,15 triệu tỷ đồng, tính theo giá trị lưu hành tại thời điểm 8/3/2023. Trong đó, trái phiếu của các tổ chức phát hành phi ngân hàng là 788.900 tỷ đồng và trái phiếu ngân hàng (bank-bond) ở mức 368.000 tỷ đồng.
Trong cơ cấu của trái phiếu phi ngân hàng thì trái phiếu bất động sản có giá trị 396.300 tỷ đồng, tức chiếm khoảng 50% tổng giá trị trái phiếu phi ngân hàng và 34% tổng trái phiếu doanh nghiệp toàn thị trường đang lưu hành. Lĩnh vực khác, thương mại và dịch vụ, xây dựng đóng góp lần lượt 11%, 9%, và 8% giá trị dư nợ.
Trước tình trạng thị trường trái phiếu tiếp tục gặp khó khăn về phát hành mới trước tình trạng cầu yếu, FiinRatings cho rằng có thể đẩy thêm nhiều doanh nghiệp (tập trung nhiều ở lĩnh vực bất động sản) vào tình trạng chậm thanh toán nghĩa vụ nợ cho các trái chủ trong giai đoạn quý 2 và quý 3/2023 – đỉnh điểm đáo hạn trái phiếu của ngành này.
Tuy nhiên, động thái hỗ trợ vừa qua như giảm lãi suất cho vay, Nghị quyết 33 và Nghị định 08 ra đời được kỳ vọng sẽ góp phần giải quyết áp lực nghĩa vụ nợ qua hoạt động tái cấu trúc nợ, cấp tín dụng mới cho các dự án sạch về pháp lý cũng như hoạt động triển khai và mở bán dần được khôi phục.