Ảnh minh họa: Lê Hồng Nhung/Mekong ASEAN |
Theo số liệu công bố mới nhất của Tổng cục Hải quan, nửa đầu tháng 5/2024 (1/5 – 15/5), Việt Nam xuất khẩu hàng hóa đạt 14,63 tỷ USD, tăng 25,1% so với cùng kỳ năm trước (YoY). Trong khoảng thời gian này, Việt Nam xuất khẩu 4 mặt hàng có kim ngạch từ 1 tỷ USD trở lên với tổng 7,44 tỷ USD, chiếm 50,9% tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 2,6 tỷ USD, tăng 38,1% YoY; tiếp đến là máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng và linh kiện với 1,78 tỷ USD, tăng 34,6% YoY; điện thoại và linh kiện đạt 1,77 tỷ USD, tăng 48,7% YoY. Hàng dệt may trong kỳ đầu tháng 5 cũng mang về 1,28 tỷ USD, tăng 6,1% YoY.
Trong số 45 mặt hàng xuất khẩu chính, 35 mặt hàng tăng trưởng dương về kim ngạch, ngược lại 10 mặt hàng ghi nhận giảm về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Thủy tinh và các sản phẩm từ thủy tinh là mặt hàng tăng cao nhất với +103% YoY, tiếp đến là máy ảnh, máy quay phim và linh kiện với +71,5% YoY, hạt tiêu với +52,5% YoY….
Ngược lại, than giảm sâu 99,7% YoY, chủ yếu do lượng xuất khẩu của mặt hàng này giảm từ 40.128 tấn còn 247 tấn. Đá quý, kim loại quý và sản phẩm có mức giảm lớn thứ hai với -60,8% YoY, quặng và khoáng sản khác -60% YoY…
Trong nửa đầu tháng 5/2024, Việt Nam xuất khẩu thủy sản đạt 369 triệu USD, tăng 9,7% so với mức 336 triệu USD tại cùng kỳ năm trước.
Tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản thuộc nhóm nông nghiệp đạt 1,06 tỷ USD, tăng 31% YoY. Trong đó, hàng rau quả có kim ngạch cao nhất với 332 triệu USD, tăng 43% YoY; gạo đứng thứ hai với 285 triệu USD, tăng 45% YoY. Tiếp đến là cà phê với 175 triệu USD, tăng 6,2% YoY; hạt điều với 171 triệu USD, tăng 27% YoY; hạt tiêu với 59 triệu USD, tăng 52% YoY; chè với 8 triệu USD, tăng 23% YoY. Sắn và sản phẩm sắn là mặt hàng duy nhất trong nhóm giảm giá trị so với cùng kỳ năm trước khi -18,4% YoY, còn 30,5 triệu USD.
Về giá xuất khẩu trung bình các mặt hàng nông sản, Mekong ASEAN tính toán từ số liệu công bố của Tổng cục Hải quan, hạt điều giảm 9,6% YoY trong nửa đầu tháng 5, còn 5.425 USD/tấn, đây cũng là mặt hàng duy nhất trong nhóm giảm về giá xuất khẩu so với cùng kỳ năm trước.
Ngược lại, cà phê tăng thêm 66% YoY, đạt 4.207 USD/tấn; chè đạt 1.695 USD/tấn, tăng nhẹ 2,9% YoY. Hạt tiêu cũng tăng thêm 56% YoY, đạt 4.491 USD/tấn; gạo tăng 17% YoY, đạt 623 USD/tấn; sắn và sản phẩm sắn tăng nhẹ 2,6%, đạt 426 USD/tấn.