Để đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp lớn mạnh, nền kinh tế Việt Nam đang đối diện các thách thức lớn khi nhu cầu tiêu thụ năng lượng tăng với tốc độ khoảng 10 đến 12% hàng năm, nhận định của ông Patrick Haverman, Phó Trưởng đại diện thường trú UNDP (Chương trình Phát triển Liên hợp quốc) tại một cuộc hội thảo ngày 23/2.
Than đá và dầu sẽ tiếp tục là các loại nhiên liệu chính trong sản xuất điện thập kỷ tới và đây được coi là các tác nhân chính của khủng hoảng khí hậu.
"Chính phủ Việt Nam đã đưa ra một loạt cam kết rất được thế giới hoan nghênh như đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, tăng 4 lần công suất năng lượng mặt trời và gió, tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo trong sản xuất điện, giảm lượng than đá tối đa", ông Haverman đánh giá.
Trong bối cảnh đó, để đạt được mục tiêu kể trên, cần tận dụng tốt các nguồn năng lượng thay thế hữu hiệu trong đó có hydro xanh từ mặt trời và gió, ông Haverman chia sẻ tại hội thảo tham vấn "Đánh giá tổng thể về sản xuất hydro xanh từ các nguồn năng lượng mặt trời và năng lượng gió và tiềm năng sử dụng ở Việt Nam".
Phó Trưởng đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam, ông Patrick Haverman phát biểu tại hội thảo. |
Trên toàn cầu, hydro xanh sản xuất từ điện phân nước chỉ đóng 0,03% sản lượng hydrogen trong năm 2020. Tuy nhiên, cải thiện các công nghệ điện phân và chi phí năng lượng tái tạo thấp có thể giúp hydro xanh có giá cạnh tranh hơn trong tương lai.
“Sản xuất và sử dụng hydro xanh vẫn còn là lĩnh vực mới ở Việt Nam, nhưng chủ đề năng lượng trung gian đang ngày càng thu hút sự quan tâm. Đáng chú ý là Công ty TNHH TGS Green Hydrogen đang dự định xây dựng nhà máy điện phân đầu tiên với nguồn đầu tư 840 triệu USD.
Vì vậy, trong nghiên cứu chung của UNDP và Viện Năng lượng đã có các bước sơ bộ để đánh giá vai trò tiềm năng của sản xuất hydrogen xanh từ điện phân nước, ứng dụng của hydrogen xanh nhằm giảm phát thải nhà kính trên diện rộng và thúc đẩy chuyển dịch năng lượng xanh tại Việt Nam”, ông Patrick Haverman cho biết.
Ông Lê Việt Cường, Phó Viện trưởng Viện Năng lượng (Bộ Công Thương) nhấn mạnh, hydro xanh và những dẫn xuất của hydro xanh đang được thế giới quan tâm và kỳ vọng là giải pháp có vị trí ngày càng quan trọng trong lộ trình chuyển dịch năng lượng do những đặc tính ưu việt về giảm phát thải các khí ô nhiễm và CO2 trong vòng đời sản phẩm, dù là nhiên liệu của quá trình chuyển hóa năng lượng hay là nguyên liệu đầu vào của những ngành sản xuất công nghiệp.
Phó Viện trưởng Viện Năng lượng Lê Việt Cường phát biểu tại hội thảo. |
Việt Nam đã cam kết cùng cộng đồng quốc tế nỗ lực cho mục tiêu đảm bảo giữ nhiệt độ trái đất tăng không quá 1,5 độ C tại Hội nghị lần thứ 21 Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (COP 21) là giảm phát thải ròng carbon của quốc gia về 0 vào năm 2050.
Cam kết này được thống nhất trong chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước thông qua nội dung các nghị quyết, luật, chiến lược, quy hoạch và kế hoạch.
Cùng với những giải pháp về phát triển năng lượng tái tạo, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, phát triển nguồn điện có phát thải carbon thấp… hydro xanh và những dẫn xuất của hydro xanh đang được thế giới quan tâm và kỳ vọng là giải pháp có vị trí ngày càng quan trọng trong lộ trình chuyển dịch năng lượng.
“Kết quả của dự án nghiên cứu “Đánh giá tổng thể việc sản xuất hydro xanh từ các nguồn năng lượng mặt trời và năng lượng gió và các tiềm năng sử dụng hydro xanh ở Việt Nam” sẽ là bước khởi đầu cho nhiều nghiên cứu, hợp tác tiếp theo giữa UNDP và các đối tác trong nước về vấn đề này”, ông Cường nói.
Nghiên cứu đã tập trung vào các nội dung: Tính toán về nhu cầu hydro và ammonia cho các ngành kinh tế Việt Nam đến năm 2050; tiềm năng sản xuất hydro xanh ở 2 vùng tiềm năng là vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Khu vực Tây Nam Bộ; tiềm năng giảm phát thải CO2 khi sử dụng hydro xanh đến năm 2050 cho lĩnh vực năng lượng.
Phó viện trưởng Viện Năng lượng Lê Việt Cường cũng thông tin, báo cáo nghiên cứu cuối cùng sau khi được hoàn thiện sẽ được UNDP và Viện Năng lượng công bố tại hội thảo tiếp theo vào thời điểm phù hợp sắp tới.