Tiềm năng từ mô hình vừa canh tác nông nghiệp vừa khai thác điện mặt trời

NĂNG LƯỢNG NHẬT BẢN
15:26 - 01/11/2023
Mô hình chia sẻ năng lượng được công ty Agritree áp dụng tại Nhật Bản. Ảnh: Agritree
Mô hình chia sẻ năng lượng được công ty Agritree áp dụng tại Nhật Bản. Ảnh: Agritree
0:00 / 0:00
0:00
Phát biểu tại hội thảo về “Xã hội không Carbon”, ông Koji Nishi, Giám đốc Công ty TNHH Agritree đã chia sẻ về giải pháp tiết kiệm năng lượng thông qua việc tích hợp mô hình điện mặt trời trên các đồng ruộng, được gọi là hệ thống chia sẻ năng lượng.

Hội thảo kỹ thuật giới thiệu về các dự án nhằm thúc đẩy “Xã hội không Carbon” và kết nối doanh nghiệp Việt Nam - Nhật Bản được tổ chức ngày 31/10, nhân dịp đoàn doanh nghiệp tỉnh Fukuoka (Nhật Bản) tới thăm và làm việc tại Việt Nam.

Hội thảo là cơ hội để các chuyên gia, nhà hoạch định chính sách, doanh nghiệp Nhật Bản tư vấn, chia sẻ, phổ biến rộng rãi hơn tới các doanh nghiệp Việt Nam những công nghệ, mô hình mà Nhật Bản đã và đang áp dụng để giảm phát thải carbon, đồng thời tạo cơ hội giao lưu, kết nối giữa cộng đồng doanh nghiệp Hà Nội và cộng đồng doanh nghiệp tỉnh Fukuoka.

Tại Hội thảo, ông Koji Nishi, Giám đốc đại diện Công ty TNHH Agritree đã chia sẻ về giải pháp tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải thông qua việc tích hợp mô hình điện mặt trời trên các đồng ruộng, được gọi là hệ thống chia sẻ năng lượng.

Hệ thống này được xây dựng dựa trên nguyên lý chia sẻ ánh sáng mặt trời giữa sản xuất nông nghiệp và sản xuất điện bằng cách lắp đặt các tấm pin năng lượng mặt trời hẹp trên những trụ đỡ cao lắp trên đất nông nghiệp.

Theo đó, các tấm pin năng lượng sẽ được lắp ở phía trên các đồng ruộng hoa màu, với khoảng cách từ 2,5 - 3m so với mặt đất nhằm đảm bảo các hoạt động canh tác vẫn có thể diễn ra bình thường. Các tấm pin năng lượng sẽ được thiết kế nhỏ hơn với độ che phủ thấp, tỷ lệ pin với khoảng trống là 1:2 nhằm đảm bảo hoa màu phía dưới vẫn có thể hấp thụ đủ ánh nắng.

Ưu điểm của hệ thống này là có thể tạo ra thu nhập từ sản xuất điện và hỗ trợ quản lý nông nghiệp nhờ việc sử dụng hiệu quả không gian phía trên đất nông nghiệp trong quá trình canh tác. Vì hệ thống này tận dụng đất nông nghiệp hiện có, nên có thể hạn chế việc khai thác đất mới để sản xuất điện, giúp người nông dân tiết kiệm chi phí mua điện và tăng thêm thu nhập nếu bán điện.

Ngoài ra, hệ thống chia sẻ năng lượng mặt trời có thể đáp ứng các nhu cầu như gia tăng nguồn thu nhập mới cho nông dân, giảm chi phí bằng cách sản xuất điện tại nhà... Đồng thời, cũng có thể sử dụng làm nguồn điện ở các vùng nông thôn không có thiết bị phát điện, hoặc trong điều kiện thời tiết xấu gây ảnh hưởng đến việc truyền tải điện đến các địa phương.

Theo Agritree, mô hình này đã được áp dụng tại một số trang trại ở Nhật Bản và đạt được một số kết quả nhất định. Đến nay, mô hình đã được đưa vào sử dụng ở một số mảnh đất nông nghiệp trồng khoai tây, hành tây, khoai lang, đậu phộng, khoai môn, đậu nành, lúa mì, quả việt quất...

Ngoài ra, hệ thống cũng có thể được đưa vào sử dụng trên những loại đất nông nghiệp khác nhau như ruộng lúa nước...

Tại Việt Nam, Agritree đã thực hiện việc nghiên cứu ứng dụng mô hình này từ năm 2021, với sự hỗ trợ của TP Hà Nội, Bộ Môi trường Nhật Bản, Tỉnh Fukuoka và JICA. Tới tháng 3/2023, Agritree đã ký kết MOU với Học viện Nông nghiệp Quốc gia Việt Nam tại Hà Nội (VNUA) nhằm tiến hành hành thiết kế các mô hình thí điểm tại VNUA.

Agritree đang thí điểm mô hình này trên 9 ô đất của VNUA với 9 loại hoa màu khác nhau gồm gừng, nghệ, sắn dây, khoai môn, khoai lang, cam thảo, mè, bí đao, cao lương và ngô hạt nhằm đánh giá xem loại hoa màu và đất nào phù hợp với mô hình này.

Công ty tin tưởng, nếu ứng dụng thành công, mô hình này có thể hỗ trợ Việt Nam chuyển đổi xanh trong nông nghiệp, giảm phát thải khí carbon, nhất là khi Việt Nam là nước phát triển mạnh về nông nghiệp và nông nghiệp đang là một trong những lĩnh vực phát thải lớn ở Việt Nam.

Ông Trần Quang Hội, CEO Công ty tư vấn đầu tư - mua bán sáp nhập Ecobuy. Ảnh: Anh Thư

Ông Trần Quang Hội, CEO Công ty tư vấn đầu tư - mua bán sáp nhập Ecobuy. Ảnh: Anh Thư

Chia sẻ thêm với Mekong ASEAN, ông Trần Quang Hội, CEO Công ty tư vấn đầu tư - mua bán sáp nhập Ecobuy, đánh giá, bên cạnh những lợi ích có thể thấy như gia tăng việc sử dụng năng lượng tái tạo, giảm phát thải, giảm chi phí đầu tư mua điện, mô hình này vẫn còn cần phải nghiên cứu nhiều hơn mới có thể đi đến áp dụng rộng rãi.

Trước hết, còn cần chờ kết quả thí điểm của Agritree và VNUA. Việc này theo ông Hội cần khoảng 3 đến 6 tháng nữa. Sau đó, còn cần cân nhắc mở rộng ra nghiên cứu xem hoa màu nào, thổ nhưỡng như thế nào thì mới thích hợp với mô hình này.

Cũng cần tính đến vấn đề quy mô, môi trường, vấn đề chống cháy nổ, bảo dưỡng... bởi ở Việt Nam chủ yếu là các hộ nông dân với quy mô, diện tích canh tác nhỏ, nhân lực ít, khó có thể đảm bảo được các tiêu chuẩn cao. Đây cũng là một rào cản đối với việc áp dụng rộng rãi mô hình này tại Việt Nam.

Ngoài ra, ông Hội cũng chỉ ra ba khó khăn lớn trong việc áp dụng mô hình này. Khó khăn thứ nhất là hiện nay, Việt Nam chưa có cơ chế, chính sách rõ ràng cho mô hình chia sẻ năng lượng. Do đó, cần có sự nghiên cứu kỹ càng hoặc có những quy định, chính sách liên quan để hỗ trợ doanh nghiệp, địa phương và các bên liên quan thực hiện mô hình này.

Khó khăn thứ hai nằm ở phía nhà đầu tư, do tích hợp với việc canh tác trong nông nghiệp nên sẽ cần đầu tư nhiều hơn cho hạ tầng tấm pin, cần xây hệ thống cột cao, khoảng cách rộng hơn nhưng tấm pin lại nhỏ, lượng điện năng tạo ra cũng ít hơn. Có thể hiểu đơn giản là chi phí đầu tư vào cao nhưng hiệu quả điện năng lại thấp hơn mô hình đầu tư điện mặt trời áp mái thông thường. Do đó, không phải nhà đầu tư nào cũng chấp nhận rủi ro này.

Ngoài ra, các nhà đầu tư cũng cần có sự hỗ trợ về tài chính, ông Hội kỳ vọng ngân hàng có thể có các cơ chế vay ưu đãi với lãi suất thấp hoặc thậm chí lãi suất 0% - 1% cho các nhà đầu tư vào các công trình xanh, giảm phát thải, tiết kiệm năng lượng như mô hình này.

Ông cũng mong muốn có sự thông thoáng hơn trong việc xét duyệt hồ sơ vay vốn, vì hiện nay, thời gian xét duyệt hồ sơ cho một dự án có khi phải mất tới 3 - 4 tháng, khoảng thời gian chờ kéo quá dài sẽ khiến doanh nghiệp dễ nản chí và có thể gây nên những khó khăn khác cho doanh nghiệp khi bị thiếu vốn.

Tin liên quan

Đọc tiếp