Thị trường Trung Đông rộng cửa cho hàng Việt sau đại dịch

XUẤT KHẨU Trung Đông
11:35 - 18/03/2022
Các quốc gia Trung Đông nhập khẩu khoảng 80% các mặt hàng lương thực, thực phẩm, tương đương khoảng 40 tỷ USD/năm. Ảnh: Halalvn.vn
Các quốc gia Trung Đông nhập khẩu khoảng 80% các mặt hàng lương thực, thực phẩm, tương đương khoảng 40 tỷ USD/năm. Ảnh: Halalvn.vn
0:00 / 0:00
0:00
Các quốc gia Trung Đông không có thế mạnh về nông nghiệp nên nhu cầu nhập khẩu rất lớn về các loại nông sản và các mặt hàng như đồ gỗ, sản phẩm nhựa, dệt may, giày dép, cao su… từ 2 - 8 tỷ USD mỗi năm, đang mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp Việt

Nhiều dư địa chưa được khai thác

Chia sẻ đến các doanh nghiệp tại hội thảo “Cơ hội vàng cho DN xuất khẩu Việt đến các quốc gia Trung Đông sau đại dịch COVID-19”, chiều 17/3, ông Nguyễn Tuấn, Phó Giám đốc Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP. Hồ Chí Minh (ITPC) cho biết, các quốc gia Trung Đông có nhu cầu nhập khẩu rất lớn dao động từ 2 - 8 tỷ USD đối với các mặt hàng như đồ gỗ, sản phẩm nhựa, dệt may, giày dép, cao su và sản phẩm cao su...

Mỗi năm, các quốc gia này nhập khẩu khoảng 80% các mặt hàng lương thực, thực phẩm, tương đương khoảng 40 tỷ USD/năm. Đến năm 2035, tổng giá trị nhập khẩu lương thực, thực phẩm của các nước vùng Trung Đông dự kiến sẽ tăng lên 70 tỷ USD/năm.

Quan hệ thương mại của Việt Nam với khu vực Trung Đông chủ yếu tập trung vào các quốc gia thuộc Hội đồng hợp tác Vùng Vịnh (GCC) với 6 quốc gia thành viên là Các tiểu Vương quốc Arab thống nhất (UAE), Arab Saudi, Kuwait, Bahrain, Qatar và Oman có tổng dân số 65 triệu người (năm 2021).

“Các quốc gia thuộc Hội đồng hợp tác Vùng Vịnh (GCC) có nền kinh tế mở, phát triển ngoại thương, thu hút đầu tư nước ngoài, du lịch, dịch vụ, đa dạng hóa nền kinh tế, thúc đẩy xuất nhập khẩu”, ông Tuấn thông tin.

Đưa ra những đặc điểm thương mại riêng của quốc gia Kuwait, ông Ngô Toàn Thắng, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Kuwait cho biết, hiện 6 nước GCC đều là thành viên WTO.

Trong vài năm gần đây, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam sang các nước GCC gia tăng nhanh chóng và có mức tăng đột biến từ năm 2012 đến nay. Nếu như năm 2012, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam sang các nước GCC mới đạt 2,7 tỷ USD, thì tới năm 2021 đã tăng gấp 4,6 lần, đạt 12,5 tỷ USD.

Ảnh tác giả

“Cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường GCC càng rộng mở với nhiều thuận lợi hơn khi Việt Nam có quan hệ ngoại giao, quan hệ hợp tác truyền thống hữu nghị lâu dài, có khuôn khổ pháp lý khá đầy đủ cho việc phát triển và tăng cường quan hệ hợp tác với các nước GCC. Ngoài ra, khối GCC có sức mua lớn, khả năng thanh toán cao do có nguồn tài chính dồi dào”.

Ông Nguyễn Tuấn, Phó Giám đốc TT Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP HCM

Cũng theo lời Đại sứ Thắng, cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu của GCC khá phù hợp với những mặt hàng xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam. Thuế nhập khẩu của khối GCC khá thấp chỉ từ 0 - 5% đối với hàng hóa nhập khẩu từ bên ngoài khối. Chính vì điều này mà Trung Đông trở thành một thị trường đầy tiềm năng của doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam.

Tuy nhiên, rào cản thương mại tại thị trường các nước GCC là việc yêu cầu giấy chứng nhận về tiêu chuẩn, kiểm định chất lượng, nhãn mác... do Tổ chức Tiêu chuẩn và Đo lường vùng Vịnh (GSMO) cấp, giấy chứng nhận Halal đối với các sản phẩm thực phẩm, thủy sản nhập khẩu.

“Hiện nay các doanh nghiệp xuất khẩu còn gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận thị trường Trung Đông như thiếu thông tin, những rào cản về logistics và thanh toán quốc tế. Vì vậy, doanh nghiệp rất cần nhận được sự hỗ trợ từ các cơ quan tổ chức ngoại giao của Việt Nam tại khu vực, cũng như các cơ quan xúc tiến thương mại và đầu tư”, ông Tuấn cho hay.

Trong bối cảnh COVID-19, UAE là thị trường đi đầu khu vực Trung Đông, sở hữu hạ tầng đa dạng và chính sách đầu tư cởi mở. Cung cấp thêm thông tin về thị trường này, ông Nguyễn Mạnh Tuấn, Đại sứ toàn quyền đặc mệnh Việt Nam tại UAE cho biết, đây được xem là cửa ngõ quan trọng thâm nhập vào khu vực GCC, và châu Phi với hơn 80% hàng hóa Việt Nam vào UAE được xuất khẩu sang nước thứ 3.

Theo ông Tuấn, UAE là quốc gia không có điều kiện tự nhiên phát triển được nông nghiệp nên nông sản Việt Nam có nhiều cơ hội tại thị trường này. Nông sản Việt Nam được người UAE đánh giá là đa dạng, thơm ngon và nhiều ưa chuộng. Trong khối ASEAN, hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam tại UAE chiếm 30%.

Tuy nhiên đây là một quốc gia đạo Hồi nên cần được chú trọng chứng nhận HALAL, nhưng đây cũng chính là điểm yếu của hàng hóa Việt Nam nên chưa khai phá được hết thị trường.

Đại sứ quán Việt Nam tại UAE nhìn thấy nhiều cơ hội từ đẩy mạnh xúc tiến thương mại nhưng khuyến nghị các doanh nghiệp cần thay đổi cách làm ăn với thị trường này.

Ảnh tác giả

“Cần tìm hiểu kỹ đối tác vì đã có nhiều gian lận thương mại đến từ 2 phía và chủ yếu từ phía UAE nhiều hơn. Chính sách mở cửa thương mại của UAE lớn nên nhiều doanh nghiệp từ các nước khác đến UAE hoạt động, khi có sự cố họ rời UAE về nước, Đại sứ quán cũng khó hỗ trợ được”.

Ông Nguyễn Mạnh Tuấn, Đại sứ toàn quyền đặc mệnh Việt Nam tại UAE

Ngoài các mặt hàng nông sản, Đại sứ Tuấn cho biết, UAE cũng rất quan tâm đến các lĩnh vực đầu tư tại Việt Nam như du lịch, logistics, hàng không...

Muốn xâm nhập sâu thị trường cần có “vé” Halal

Chứng nhận Halal được coi là “tấm vé” tiên quyết để các sản phẩm Việt Nam có thể tiến vào thị trường này. Chia sẻ về những lưu ý để các doanh nghiệp có thể dễ dàng đạt tiêu chuẩn Halal, bà Nguyễn Thị Ngọc Hằng, Giám đốc Marketing, Văn phòng chứng nhận Halal - HCA Việt Nam cho biết sản phẩm có chứng nhận Halal là sản phẩm mà người Hồi giáo được phép ăn uống hoặc sử dụng.

Chứng nhận Halal cũng là chương trình đánh giá theo chuẩn mực quốc tế cho sản phẩm hay dịch vụ có trách nhiệm. Đây là quá trình xem xét đánh giá độc lập, khách quan để công nhận rằng những sản phẩm dịch vụ cụ thể được đánh giá đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn Halal.

Theo bà Hằng, lợi ích của chứng chỉ Halal là vô cùng lớn, giúp doanh nghiệp có thể đáp ứng được các yêu cầu khi xuất khẩu vào các quốc gia Hồi giáo, được người Hồi giáo tin tưởng mua, sử dụng, tạo lòng tin cho người tiêu dùng, từ đó giúp doanh nghiệp tăng cơ hội tham gia vào chuỗi cung ứng nguyên liệu và sản phẩm Halal toàn cầu.

Về điều kiện chung để sản phẩm được chứng nhận Halal, bà Hằng nhấn mạnh, doanh nghiệp cần đáp ứng được đồng thời hai điều kiện là nguyên liệu Halal và dây chuyền sản xuất Halal.

Cụ thể, ngoài việc nguyên liệu, phụ gia, hóa chất… phải có chứng nhận Halal thì trên cùng một dây chuyền không được sản xuất lẫn lộn sản phẩm. Việc đạt các yêu cầu vệ sinh, quản lý chất lượng sản phẩm HACCP, ISO 22000… là lợi thế lớn cho doanh nghiệp xuất khẩu.

Ngoài ra, trong quá trình đánh giá Halal, cơ quan đánh giá sẽ tiến hành truy xuất nguyên liệu và tất cả thành phần có trong quá trình sản xuất. Sau khi được cấp chứng nhận, doanh nghiệp cũng cần phải lưu ý khi cho ra đời sản phẩm mới hay thay đổi nguyên liệu… phải đảm bảo tính toàn vẹn Halal trong suốt quy trình sản xuất.

“Doanh nghiệp cũng nên chọn những tổ chức chứng nhận Halal uy tín, được cấp phép và đảm bảo các tiêu chuẩn, được công nhận tại các thị trường xuất khẩu đặc biệt đáp ứng các yêu cầu riêng của từng thị trường quy định”, bà Hằng khuyến nghị.

Tin liên quan

Đọc tiếp