Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, 6 tháng đầu năm 2025, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam đạt 33,84 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm trước; nhập khẩu đạt 24,01 tỷ USD, tăng 15,1% YoY. Trong kỳ, thặng dư thương mại của ngành đạt 9,83 tỷ USD, tăng 16,5% YoY.
Về xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong kỳ đạt 18,46 tỷ USD, tăng 17,8% so với cùng kỳ năm trước; sản phẩm chăn nuôi đạt 264,4 triệu USD, tăng 10,1% YoY. Giá trị xuất khẩu thủy sản đạt 5,16 tỷ USD, tăng 16,9% YoY; lâm sản đạt 8,82 tỷ USD, tăng 9,3% YoY; muối đạt 5,7 triệu USD, tăng 2,4 lần so với cùng kỳ.
Về mặt hàng, trong kỳ, Việt Nam có 3 mặt hàng nông lâm thủy sản đạt kim ngạch trên 5 tỷ USD. Cụ thể, Việt Nam xuất khẩu 953.900 tấn cà phê với giá trị 5,45 tỷ USD, tăng lần lượt 5,3% về lượng và 67,5% về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản cũng tăng 16,9% so với cùng kỳ, lên 5,16 tỷ USD; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 8,9% YoY, đạt 8,21 tỷ USD.
Trong kỳ, Việt Nam còn thu về 3,05 tỷ USD từ xuất khẩu rau quả, tương ứng giảm 8,4% so với 6 tháng đầu năm 2024. Lượng và giá trị xuất khẩu gạo đạt lần lượt 4,9 triệu tấn và 2,54 tỷ USD, dù tăng 7,6% về lượng nhưng lại giảm 12,2% về kim ngạch so với cùng kỳ năm trước.
Trong nhóm, hạt điều và cao su là các mặt tiếp theo có kim ngạch xuất khẩu tỷ USD với lần lượt 2,36 tỷ USD và 1,27 tỷ USD, tăng 20,4% và 14,4% so với cùng kỳ.
Nửa đầu năm 2025, Việt Nam còn thu về 859 triệu USD từ xuất khẩu hạt tiêu, tăng 35,7% so với cùng kỳ năm trước; sắn và sản phẩm từ sắn với 711 triệu USD, tăng 12,8% YoY; chè với 97,9 triệu USD, giảm 7,5% YoY.
Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi đạt 264 triệu USD, tăng 10,1% so với cùng kỳ. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 46,1 triệu USD, giảm 27,8% YoY; thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 101,4 triệu USD, tăng 28,2% YoY.
Về giá xuất khẩu trung bình, gạo giảm sâu 18,4% so với nửa đầu năm 2024, xuống còn 517,5 USD/tấn; chè giảm 0,1% YoY, còn 1.675 USD/tấn và sắn, sản phẩm từ sắn giảm 33,1% YoY, đạt 304,1 USD/tấn.
Trong khi đó, giá xuất khẩu cà phê trung bình tăng tới 59,1% so với cùng kỳ năm trước, lên 5.708 USD/tấn; hạt tiêu cũng tăng 54,8% YoY, lên 6.881 USD/tấn.
Giá xuất khẩu cao su và hạt tiêu tăng lần lượt 22,4% YoY (đạt 1.864 USD/tấn) và hạt điều với 23,8% YoY (đạt 6.805 USD/tấn).
Về khu vực, châu Á là thị trường xuất khẩu nông lâm thủy sản lớn nhất của Việt Nam, chiếm 42% tỷ trọng về giá trị. Hai khu vực đứng sau là châu Mỹ và châu Âu với thị phần lần lượt là 23,5% và 15,6%. Thị phần của khu vực châu Phi là 3,2%.
Trong kỳ, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam sang khu vực châu Á tăng 2,3% so với cùng kỳ năm trước; châu Mỹ tăng 18,7%; châu Âu tăng 46,3%; châu Phi tăng 99,5%...
Xét thị trường riêng lẻ, Mỹ là thị trường xuất khẩu nông lâm thủy sản lớn nhất của Việt Nam khi chiếm 21,1% tỷ trọng. đứng sau là Trung Quốc với 17,6% và Nhật Bản với 7,2%.
So với cùng kỳ năm trước, giá trị xuất khẩu nông lâm thủy sản 6 tháng đầu năm 2025 sang Mỹ tăng 16%, Trung Quốc giảm 0,7% và Nhật Bản tăng 25,5%.
Về nhập khẩu, nửa đầu năm 2025, kim ngạch nhập khẩu nông sản của Việt Nam đạt 14,86 tỷ USD, tăng 16,4% so với cùng kỳ; sản phẩm chăn nuôi đạt 2,11 tỷ USD, tăng 21,5% YoY; thủy sản đạt 1,61 tỷ USD, tăng 33,4% YoY; lâm sản đạt 1,54 tỷ USD, tăng 19,4% YoY. Kim ngạch nhập khẩu đầu vào sản xuất cũng tăng 1% YoY, lên mức 3,87 tỷ USD; muối đạt 15,9 triệu USD, giảm 9,6% YoY.
Trung Quốc và Mỹ là hai thị trường cung cấp hàng nông lâm thủy sản lớn nhất cho Việt Nam với thị phần cùng chiếm 8,9% tỷ trọng, tăng lần lượt 9,1% và 19% về giá trị so với cùng kỳ năm trước.
Campuchia là thị trường nhập khẩu nông lâm thủy sản lớn thứ ba của Việt Nam khi chiếm 8,6% tỷ trọng, tăng 48% so với cùng kỳ năm trước.
Các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu nông lâm thủy sản thời gian tới
Theo báo cáo của Bộ NN&MT, để gia tăng giá trị chất lượng và thị phần xuất khẩu các sản phẩm nông lâm thủy sản, Bộ tiếp tục nghiên cứu triển khai các nhiệm vụ nhằm khai thác tốt hơn thị trường Trung Quốc; tăng cường hoạt động phát triển thị trường, kết nối, quảng bá nông sản tại các thị trường lớn còn nhiều tiềm năng như EU, Nhật Bản.
Bộ cũng sẽ đàm phán mở cửa thị trường xuất khẩu các nhóm sản phẩm chủ lực như trái cây và nhóm sản phẩm tiềm năng còn nhiều dư địa như sản phẩm chăn nuôi.
Bên cạnh đó, Bộ tập trung quản lý chặt chẽ chất lượng trong sản xuất, chế biến và chứng nhận sản phẩm đảm bảo các tiêu chuẩn, quy định của thị trường, truy xuất nguồn gốc sản phẩm, làm cơ sở để phát triển thương hiệu nông sản Việt Nam...
![]() Tại buổi họp báo sáng 3/7, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết việc tiền sử dụng đất tăng cao khi chuyển đổi mục đích xuất phát từ định hướng điều chỉnh giá đất tiệm cận giá thị trường. |
![]() Nửa đầu năm 2025, Việt Nam xuất khẩu 388 lô sầu riêng đông lạnh với sản lượng 14.282 tấn, tăng gấp 3 lần so với cùng kỳ năm 2024. |