Việt Nam được các chuyên gia quốc tế đánh giá là "Trung Đông mới" có nhiều lợi thế năng lượng tái tạo. |
Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) vừa có Công văn số 15/Ban IV trình Thủ tướng Chính phủ về nhận diện các thách thức và trọng tâm đột phá, nhằm giúp Việt Nam xác lập vị thế địa kinh tế mới, trong bối cảnh thực thi cam kết và quy định giảm phát thải khí hậu.
Nhận diện 4 thách thức lớn trong bối cảnh "xanh hóa" trật tự thế giới
Công văn của Ban IV nêu rõ, Hội nghị COP 26 và những cam kết mạnh mẽ của Việt Nam đã thể hiện tầm nhìn thời đại của lãnh đạo Đảng, Nhà nước trong việc nâng cao vị thế, hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế.
Bên cạnh đó, cũng không thể bỏ qua các rủi ro tiềm ẩn nếu như Việt Nam không thực hiện được các cam kết đó. Việt Nam có thể phải đối mặt với tình trạng hàng hóa xuất khẩu trị giá 245 tỷ USD có thể phải chịu thuế carbon, thiếu hụt năng lượng do các nguồn nhiên liệu hóa thạch cạn kiệt.
“Đáng lưu ý, xét trên bình diện quốc tế, quá trình chuyển đổi và xây dựng ‘trật tự xanh’ trên phạm vi toàn cầu được cho là tất yếu và không thể tránh khỏi. Điều này thể hiện qua việc ngày càng nhiều quốc gia cam kết đạt phát thải ròng carbon bằng 0, thể hiện sự công nhận thời khắc phải hành động đã đến”, công văn của Ban IV nêu rõ.
Lấy dẫn chứng, Ban IV chỉ ra, trong xu thế chung của thế giới, nhiều nước ASEAN (kinh tế đa số phụ thuộc vào các ngành phát thải nhiều carbon) đã có những cân nhắc trong việc đánh đổi những lợi thế cạnh tranh vốn có (tài nguyên hóa thạch, nhân công giá rẻ...) để theo đuổi các mục tiêu bền vững.
Thái Lan đang đặt tham vọng vào mô hình kinh tế “Xanh - Tuần hoàn - Sinh học”, với mục tiêu trung hòa carbon vào năm 2050 và trở thành trung tâm sản xuất pin điện (EV battery).
Malaysia cũng đặt ra tham vọng đầy thách thức với cam kết vô điều kiện giảm 45% cường độ phát thải carbon so với năm 2005. Indonesia và Philippines hiện nay đang trong quá trình thảo luận, đề xuất và chưa đưa ra cam kết cụ thể.
Trong khi đó, Singapore là quốc gia không chịu thách thức về bài toán như các quốc gia nêu trên nhưng lại rất nhanh chóng nhận diện được cơ hội và đặt mục tiêu trở thành “trung tâm giải pháp giảm phát thải của khu vực”.
Bối cảnh đó tạo ra 4 thách thức đối với Việt Nam, gồm: Nền kinh tế và doanh nghiệp Việt Nam sẽ tăng chi phí xuất khẩu dẫn đến nguy cơ mất tính cạnh tranh, khi các biện pháp điều chỉnh thuế carbon (CBAM của EU, đạo luật cạnh tranh sạch của Mỹ...) được áp dụng.
Việt Nam có nguy cơ thiếu hụt năng lượng do các nguồn nguyên liệu hóa thạch ngày càng cạn kiệt, với chi phí sản xuất cao gấp 6 lần năng lượng tái tạo, khi toàn cầu chuyển dịch sang nguồn năng lượng sạch.
Việt Nam có nguy cơ giảm sự ủng hộ quốc tế, đánh mất cơ hội chuyển dịch khi không có được tiếng nói chung trong các vấn đề xanh, bền vững.
Nền kinh tế có nguy cơ chậm chuyển dịch sang các ngành công nghệ cao và ngày càng mất vị thế trong chuỗi cung ứng mới.
Ba trọng tâm đột phá xác lập vị thế địa kinh tế cho Việt Nam
Trong bối cảnh thách thức ngày càng nhiều, theo Ban IV, Việt Nam không thể không có những hành động thay đổi đột phá nhằm tái định vị lại vị thế quốc gia trong ngắn hạn và đảm bảo cho mục tiêu đã cam kết trong dài hạn.
Các chuyên gia nhận diện, ba trọng tâm đột phá có thể giúp Việt Nam thay đổi cuộc chơi, tạo thế và lực bền vững trong tương lai.
Trọng tâm đầu tiên là đặt tham vọng trở thành cường quốc sản xuất và xuất khẩu năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời, điện gió ngoài khơi, thủy điện) khu vực Đông Nam Á.
“Việt Nam có những lợi thế từ thiên nhiên mà ít quốc gia so sánh được. Đó là vị trí nằm phía trên đường xích đạo và tiếp giáp với Biển Đông, có đường bờ biển dài với nắng, gió vô tận khiến Việt Nam được coi như là một ‘Trung Đông mới’ trong đánh giá của nhiều chuyên gia quốc tế khi nghiên cứu các cơ hội phát triển năng lượng mới”, Ban IV phân tích.
Do đó, Việt Nam có thể tạo lợi thế trong chuỗi sản xuất, cung ứng năng lượng sạch toàn cầu. Về dài hạn, năng lượng tái tạo là yếu tố cốt lõi để khai phá các cơ hội phát triển một nền công nghiệp xanh bền vững, sản xuất nhiên liệu mới, và tăng tính cạnh tranh của nền kinh tế từ lợi thế nguồn năng lượng giá rẻ (ước tính vào năm 2050, giá năng lượng tái tạo sẽ rẻ hơn khoảng 6 lần so với các nhiên liệu hóa thạch).
Việt Nam có tiềm năng sản xuất 1030 GW điện tái tạo (380GW từ điện mặt trời, 650 GW từ năng lượng gió), cao hơn 32% so với Indonesia. Nguồn lực này mang lại khả năng tự chủ an ninh năng lượng quốc gia, đồng thời mở ra cơ hội xuất khẩu điện cho các nước quanh khu vực (Singapore có nhu cầu nhập khẩu 4GW, các tỉnh miền Nam Trung Quốc có nhu cầu nhập khẩu ~10GW điện carbon thấp).
Trọng tâm thứ hai, dựa trên lợi thế từ nguồn năng lượng tái tạo, Việt Nam có thể phát triển các liên khu công nghiệp xanh, xuất khẩu dọc bờ biển. Một mặt, Việt Nam hướng tới việc xanh hóa các ngành công nghiệp phát thải cao hiện hữu (thép, cơ khí, hóa dầu, xi măng..) để giảm thiểu nguy cơ chịu thuế carbon xuyên biên giới, giảm giá thành sản xuất và giảm phát thải carbon.
Mặt khác, Việt Nam có thể khai phá các ngành công nghiệp mới tiềm năng như sản xuất nhôm xanh, nhiên liệu thay thế từ năng lượng tái tạo, trung tâm dữ liệu dưới biển, hoặc phát triển ngành công nghiệp bán dẫn để tạo lợi thế trong tương lai.
Bên cạnh đó, việc phát triển liên khu công nghiệp dọc bờ biển góp phần tạo ra sức mạnh đồng thời về địa chính trị, địa kinh tế và địa an ninh của Việt Nam trong khu vực.
Trọng tâm thứ ba, dựa trên cơ sở của phát triển năng lượng tái tạo, Việt Nam có cơ hội sản xuất nhiên liệu xanh và nhiên liệu thay thế (Hydro xanh, Ammonia xanh, và các nhiên liệu sinh học tiên tiến).
Trước mắt nhằm phục vụ nhu cầu trong nước, xuất khẩu các thị trường có nhu cầu lớn (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Philippines,...), đồng thời tận dụng cơ hội chuyển dịch chuỗi cung ứng nhiên liệu mới toàn cầu.
Đến năm 2040, các nước Đông Á sẽ cần một lượng hydro và amoniac đáng kể để khử carbon trong các hệ thống năng lượng (khoảng 80 triệu tấn ở Trung Quốc, 12 triệu tấn ở Nhật Bản và 5 triệu tấn ở Hàn Quốc) với tốc độ cao hơn 5 lần so với vào năm 2020.
Ước tính chi phí sản xuất Hydro xanh của Việt Nam khoảng 1,9 USD / kg-H2, tương đương chi phí sản xuất vận chuyển của Trung Quốc, rẻ hơn 2 lần so với các nước đang dẫn đầu trong sản xuất Hydro xanh (Nhật Bản, Hàn Quốc khoảng 3,1 – 3,7 USD/kg-H2, Australia khoảng 3,4 – 3,7 USD/kg-H2, Ả Rập Xê Út khoảng 3,1 – 3,6 USD/kg-H2).
“Ngành công nghiệp này có thể trở thành một trong những đột phá quan trọng, mở ra kỷ nguyên giúp Việt Nam định vị lại vị thế quốc gia trên bản đồ cung cấp năng lượng toàn cầu”, công văn Ban IV nhấn mạnh.
Kiến nghị xây dựng một chiến lược hành động chung
Để thực hiện được ba trọng tâm đột phá nêu trên, Ban IV đề xuất Thủ tướng định hướng chỉ đạo để nghiên cứu chi tiết nhằm sớm có hành động, quyết sách quốc gia giúp Việt Nam chuyển mình trong thời kỳ mới.
Ban IV cũng cho rằng cần có sự hoạch định rõ ràng và triển khai đồng bộ giữa Chính phủ, các Bộ/ngành, địa phương, tổ chức, doanh nghiệp. Đồng thời, kiến nghị Chính phủ xây dựng một chiến lược và lộ trình hành động chung, làm kim chỉ nam trong việc hoạch định, xây dựng, tích hợp, và triển khai hiệu quả các kế hoạch liên Bộ/liên ngành và thống nhất giữa các địa phương.
Ngoài ra, xác định nguồn vốn thực hiện có vai trò quan trọng, Ban IV đề xuất Thủ tướng chỉ đạo Bộ/ban ngành có các nghiên cứu cải thiện và hoàn thiện chính sách nhằm thu hút mạnh mẽ nguồn vốn xanh, phát triển mạnh các sản phẩm tài chính xanh.
Cùng với đó, công văn cũng đề xuất Thủ tướng Chính phủ trực tiếp phát động trong cộng đồng doanh nghiệp, chuyên gia, các nhà khoa học, các chương trình xây dựng sáng kiến, ý tưởng kinh doanh đổi mới sáng tạo từ nội lực trong nước để đóng góp cho xu thế phát triển mới.