Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy trình bày báo cáo thẩm tra. |
Chiều 20/6, Quốc hội nghe tờ trình và báo cáo thẩm tra về dự án Luật Địa chất và khoáng sản. Dự án Luật được xây dựng gồm 117 điều và được bố cục thành 12 chương, tăng 1 chương và 31 điều so với Luật Khoáng sản năm 2010.
Trình bày tờ trình về dự án Luật, Bộ trưởng TN&MT Đặng Quốc Khánh cho biết, sau 13 năm thi hành Luật Khoáng sản năm 2010 đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế. Thứ nhất, Luật Khoáng sản chưa quy định quản lý Nhà nước về địa chất, nhất là quản lý thống nhất theo tiêu chuẩn, quy chuẩn chuyên ngành; đặc biệt chưa thống nhất quản lý thông tin, dữ liệu địa chất.
Thứ hai, thủ tục hành chính cấp phép về khoáng sản làm vật liệu san lấp còn phức tạp; chưa phân loại các đối tượng khoáng sản để áp dụng thủ tục hành chính tương ứng, phù hợp (thủ tục của mỏ đất san lấp phải thực hiện như một mỏ vàng).
Thứ ba, việc thu tiền cấp quyền khai thác theo trữ lượng khoáng sản còn gặp nhiều bất cập như: Tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo trữ lượng khoáng sản được phê duyệt chưa đảm bảo tính chính xác; thu tiền cấp quyền khai thác trước khi tiến hành khai thác không tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ bản mỏ; trường hợp khai thác không đủ trữ lượng được cấp phép hiện chưa có quy định việc hoàn trả tiền cấp quyền.
Từ những tồn tại đó, dự thảo Luật được xây dựng theo hướng tăng cường phân công, phân cấp cho chính quyền địa phương; bổ sung và làm rõ các hoạt động thu hồi khoáng sản, đăng ký khai thác khoáng sản nhóm 4 không phải cấp giấy phép thăm dò, khai thác khoáng sản; bổ sung các trường hợp đặc thù cho phép khai thác khoáng sản không phải có quy hoạch khoáng sản...
Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh trình bày tờ trình. |
Trình bày báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường (KH,CN&MT) Lê Quang Huy nhấn mạnh, Ủy ban cơ bản tán thành với sự cần thiết ban hành Luật Khoảng sản và Địa chất.
Về phân nhóm khoáng sản, Ủy ban cơ bản thống nhất với quy định phân 4 nhóm khoáng sản như dự thảo Luật, trong đó tách riêng nhóm khoáng sản là vật liệu xây dựng thông thường (nhóm 3) và khoáng sản làm vật liệu san lấp (nhóm 4).
Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng một số loại khoáng sản có thể sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau và phụ thuộc vào trình độ công nghệ ở thời điểm điều tra, thăm dò, khai thác, sử dụng nên khó xác định thuộc nhóm khoáng sản nào, gây chồng chéo thẩm quyền quy hoạch khoáng sản, có thể dẫn đến lãng phí tài nguyên hoặc ảnh hưởng đến vấn đề dự trữ tài nguyên quốc gia.
Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể hơn các loại khoáng sản nhóm 4 và làm rõ nội hàm khoáng sản “chỉ phù hợp với mục đích làm vật liệu san lấp” để đơn giản hóa thủ tục khai thác cát sông, cát biển làm vật liệu san lấp.
Một số ý kiến đề nghị quy định rõ việc phân nhóm khoáng sản để áp dụng quản lý trong trường hợp mỏ có nhiều loại khoáng sản khác nhau; tiêu chí phân nhóm khoáng sản gắn với tiềm lực vị thế quốc gia, khoáng sản chiến lược gắn với quốc phòng, an ninh như đất hiếm, urani…
Đơn vị thẩm tra đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu giải trình, tiếp thu các ý kiến nêu trên, tránh khoảng trống pháp lý dẫn đến sai phạm, thất thoát, lãng phí. Ngoài ra, quy định phân nhóm khoáng sản cần lưu ý các vấn đề liên quan đến một số khoáng sản như than, quặng phóng xạ, titan, bauxit và mối quan hệ giữa than, dầu và khí, đá phiến.
Về tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, có hai loại ý kiến khác nhau. Loại ý kiến thứ nhất tán thành quan điểm của Chính phủ quy định về tiền cấp quyền khai thác khoáng sản như dự thảo Luật vì khoáng sản là tài nguyên thiên nhiên không tái tạo, là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu. Vì vậy, nhà đầu tư phải trả một khoản tiền để được thực hiện quyền khai thác. Tiền cấp quyền khai thác đã được quy định tại Điều 77 Luật Khoáng sản hiện hành và trong thời gian qua, Ngân sách Nhà nước đã thu được số tiền lớn.
Loại ý kiến thứ hai đề nghị bỏ quy định về tiền cấp quyền khai thác khoáng sản vì việc nộp cả tiền cấp quyền và thuế tài nguyên đang được xem là gánh nặng tài chính cho doanh nghiệp khoáng sản. Tất cả nghĩa vụ tài chính nên được thể hiện trong khoản thuế mà doanh nghiệp khoáng sản phải nộp, có thể tăng thuế tài nguyên để bù đắp nguồn thu ngân sách do không thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản.
Kết quả lấy phiếu xin ý kiến về nội dung trên cho thấy, đa số ý kiến thành viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường (88,4%) tán thành loại ý kiến thứ nhất. Đồng thời, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo báo cáo Quốc hội về kinh nghiệm quốc tế đối với nội dung tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản và tổng kết tình hình thực hiện tiền cấp quyền khai thác các loại tài nguyên trong thời gian qua.
Đại biểu Quốc hội nghe tờ trình và báo cáo thẩm tra về dự án Luật Địa chất và khoáng sản. |
Về phương pháp xác định, phương thức thu, nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản cũng có hai loại ý kiến khác nhau. Loại ý kiến thứ nhất cho rằng quy định tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo trữ lượng khoáng sản và được thu theo năm, quyết toán theo sản lượng khai thác thực tế như quan điểm của Chính phủ tại dự thảo Luật là phù hợp.
Quan điểm này được lý giải là tiền cấp quyền nộp theo năm sẽ giúp doanh nghiệp không mất khoản chi phí lớn tại thời điểm bắt đầu triển khai dự án; việc quyết toán tiền cấp quyền theo sản lượng thực tế sẽ giải quyết vấn đề chênh lệch giữa trữ lượng thăm dò với sản lượng thực tế; nếu tính tiền cấp quyền chỉ căn cứ trên cơ sở sản lượng thực tế thì có thể trùng với thuế tài nguyên.
Loại ý kiến thứ hai đề nghị quy định tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo sản lượng khai thác thực tế vì việc tính tiền theo trữ lượng khoáng sản không bảo đảm chính xác, có thể rủi ro cho tổ chức, cá nhân. Có trường hợp doanh nghiệp được cấp giấy phép, đã nộp tiền cấp quyền khai thác theo trữ lượng nhưng chưa thể khai thác do vướng mắc về giải phóng mặt bằng. Doanh nghiệp gặp khó khăn khi rất cần kinh phí đầu tư xây dựng cơ bản mỏ nhưng đã phải nộp tiền cấp quyền lớn theo trữ lượng khi chưa phát sinh doanh thu.
Đề xuất vật liệu xây dựng thông thường và đất đá sỏi không cấp phép mỏ
Kết quả lấy phiếu xin ý kiến thành viên Ủy ban KH,CN&MT về nội dung trên cho thấy: 53,5% đồng ý loại ý kiến thứ nhất; 39,5% đồng ý loại ý kiến thứ hai; 4,7% có ý kiến khác; 2,3% không chọn phương án nào.
Có ý kiến đề nghị đối với thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo trữ lượng nên thu tiền cấp quyền theo đợt (2-3 đợt) thay cho việc thu theo năm, không nên quyết toán theo thực tế vì không phù hợp với bản chất. Có ý kiến đề nghị nghiên cứu có phương án đảm bảo sự công bằng giữa phương án thu, nộp đối với mỏ đấu giá và không đấu giá.
Bên cạnh đó, Ủy ban KH,CN&MT đề nghị nghiên cứu, bổ sung căn cứ tính tiền cấp quyền khai thác đối với tài nguyên mới hoặc khoáng sản đa kim chưa quy định về giá tính thuế tài nguyên; quy định rõ quyết toán theo năm hay cuối chu kỳ khai thác mỏ, phương thức thu, quyết toán.