![]() |
| Hơn một nửa thành viên của Hợp tác xã nông nghiệp Tân Thành là hộ nghèo, cận nghèo hoặc mới thoát nghèo, chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số. Ảnh: Lê Hồng Nhung - Mekong ASEAN |
Từ cây nghệ đến sản phẩm giá trị cao
Giống nghệ vàng ở vùng Bắc Kạn (nay là tỉnh Thái Nguyên) phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng, có thể đạt năng suất trên 4 tấn/ha. Tuy nhiên, do sản xuất nhỏ lẻ, bà con ít đầu tư chăm sóc, giá trị kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng.
Nhận thấy tiềm năng của loài cây này trong ngành dược - mỹ phẩm và thực phẩm, trong vài năm trở lại đây, nhiều doanh nghiệp và hợp tác xã đã tập trung xây dựng vùng nguyên liệu, áp dụng canh tác hữu cơ, đầu tư công nghệ chế biến tinh bột, viên nang... Không ít đơn vị đã xây dựng thương hiệu riêng, đưa sản phẩm tham gia chương trình OCOP, nâng cao giá trị và uy tín trên thị trường.
Ra đời từ năm 2017 tại xã Nông Thượng, tỉnh Bắc Kạn cũ (nay là phường Bắc Kạn, tỉnh Thái Nguyên), Hợp tác xã Nông nghiệp Tân Thành được thành lập nhằm nhân rộng đặc sản nghệ nếp địa phương, tạo sinh kế ổn định cho người dân.
Giám đốc hợp tác xã Nguyễn Thị Hồng Minh cho biết, trước khi hợp tác xã thành lập, các hộ gia đình chỉ sản xuất nghệ nếp nhỏ lẻ. Khi Nhà nước khuyến khích phát triển mô hình kinh tế tập thể, hợp tác xã ra đời để liên kết người nông dân, hình thành chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ.
Các thành viên được hỗ trợ giống, hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc, thu hoạch và bao tiêu sản phẩm, bảo đảm đầu ra ổn định, giảm rủi ro.
Hiện hợp tác xã đã chế biến hơn 20 sản phẩm từ nghệ và nông sản địa phương, bao gồm tinh bột nghệ nếp đỏ, tinh bột nghệ nếp đen cao cấp, viên tinh nghệ mật ong, nghệ lát sấy, bột gừng, bột quế, trám đen, măng khô… Trong đó, nghệ nếp vẫn là thế mạnh nổi bật, trồng trên địa hình núi nên có chất lượng đặc trưng, khác biệt so với các vùng đồng bằng, bà Minh chia sẻ với Mekong ASEAN.
![]() |
| Chứng nhận sản phẩm trồng trọt hữu cơ của hợp tác xã. Ảnh: Lê Hồng Nhung - Mekong ASEAN |
Toàn bộ 135 ha nghệ của hợp tác xã hiện được sản xuất hữu cơ, cho sản lượng 5.000 – 7.000 tấn nghệ tươi/năm. Nhờ chất lượng ổn định, hai sản phẩm tinh bột nghệ nếp đỏ và nếp đen cao cấp của hợp tác xã đã đạt chứng nhận OCOP 4 sao.
Ngoài thị trường trong nước, sản phẩm nghệ nếp của hợp tác xã còn được xuất khẩu sang nhiều thị trường quốc tế như Nhật Bản, Ấn Độ…
Giai đoạn 2020 – 2025, hợp tác xã nhận 18 bằng khen của các bộ, ngành và UBND tỉnh, đồng thời nhiều lần được vinh danh tại các giải thưởng uy tín như “Hợp tác xã tiêu biểu toàn quốc”, “Sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu cấp quốc gia”, giải thưởng “Mai An Tiêm” và “Thương hiệu vàng Nông nghiệp Việt Nam”.
Với hướng đi nhất quán và nỗ lực bền bỉ, đến nay hợp tác xã đã tạo việc làm thường xuyên cho 72 lao động, với thu nhập bình quân khoảng 7 triệu đồng/tháng. Quy mô tổ chức mở rộng từ vài thành viên ban đầu lên 428 thành viên trong năm 2025, trong đó hơn 60% là hộ nghèo, cận nghèo hoặc mới thoát nghèo, chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số.
Những thành tựu này là minh chứng rõ nét cho tinh thần đoàn kết, sáng tạo và nỗ lực không ngừng của tập thể Hợp tác xã Nông nghiệp Tân Thành trong hành trình nâng cao giá trị sản phẩm địa phương gắn với ổn định sinh kế cho người dân.
![]() |
| Sản phẩm nghệ nếp của hợp tác xã. Ảnh: Lê Hồng Nhung - Mekong ASEAN |
Song hành với người dân phát triển nông nghiệp bền vững, hiệu quả
Cùng với sự phát triển của các hợp tác xã, chính quyền địa phương đã gắn kết, khơi thông nguồn lực để sản phẩm nông nghiệp tỉnh phát triển mạnh mẽ. Hiện toàn tỉnh Thái Nguyên có trên 600 hợp tác xã nông nghiệp.
Để thúc đẩy hơn nữa, tháng 12/2025, tỉnh sẽ tổ chức “Festival Nông sản, OCOP, làng nghề gắn kết du lịch – Thái Nguyên 2025”, tạo cơ hội cho doanh nghiệp, hợp tác xã, làng nghề giới thiệu sản phẩm, thiết lập quan hệ đối tác, tăng cường thị trường tiêu thụ.
Trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, Chương trình Mục tiêu quốc gia về nông thôn mới và giảm nghèo bền vững cũng phát huy hiệu quả. Sau sáp nhập, 77 xã của tỉnh đã triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới, tạo nền tảng giảm nghèo toàn diện cho nông dân.
Giai đoạn 2021 – 2025, Thái Nguyên được phân bổ hơn 1.167 tỷ đồng cho Chương trình giảm nghèo bền vững, trong đó ngân sách Trung ương hơn 1.113 tỷ đồng, ngân sách địa phương hơn 53 tỷ đồng.
Giai đoạn 2022 - 2024, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm từ 10,29% xuống còn 5,46%, bình quân mỗi năm giảm 1,61%. Riêng vùng đồng bào dân tộc thiểu số giảm từ 19,87% xuống 11,2%. Dự kiến đến cuối năm 2025, toàn tỉnh Thái Nguyên còn khoảng 19.679 hộ nghèo, chiếm 4,66% dân số.
Tính đến 13/11, theo báo cáo của tỉnh Thái Nguyên, vốn giải ngân Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trên địa bàn đạt 665/1.523 tỷ đồng, tương đương 43,7%.
Tại Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội Bắc Kạn, dư nợ tín dụng chính sách hiện đạt hơn 379 tỷ đồng, với hơn 4.400 khách hàng tham gia.
Trong 3 năm triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia, toàn tỉnh đã thực hiện 642 dự án hỗ trợ phát triển sản xuất với sự tham gia của 13.330 hộ, trong đó có 6.811 hộ nghèo, 3.791 hộ cận nghèo và 2.728 hộ mới thoát nghèo. Các mô hình sản xuất nông - lâm nghiệp phù hợp địa hình, thổ nhưỡng từng vùng giúp người dân nâng cao thu nhập và giảm dần phụ thuộc vào hỗ trợ.
Riêng năm 2025, theo báo cáo của Chi cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Sở Nông nghiệp và Môi trường) tỉnh, ước tính Thái Nguyên hỗ trợ thực hiện 80 dự án, mô hình giảm nghèo, trong đó triển khai 18 dự án liên kết chuỗi giá trị, 62 dự án hỗ trợ phát triển sản xuất cộng đồng.
Tại Chỉ thị số 11/CT-UBND, Chủ tịch UBND tỉnh Thái Nguyên yêu cầu các cấp, ngành tăng cường trách nhiệm, thực hiện nghiêm nguyên tắc “rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ trách nhiệm và rõ kết quả”.
Tỉnh đặc biệt quan tâm đến chính sách hỗ trợ nhà ở nông thôn an toàn, nhất là đối với các hộ dân sinh sống tại khu vực có nguy cơ chịu tác động của thiên tai và biến đổi khí hậu. Các dự án liên quan đến đất ở, đất sản xuất, vệ sinh môi trường, giáo dục và thông tin sẽ được tập trung triển khai theo hướng đồng bộ, bảo đảm phù hợp điều kiện thực tế của từng địa phương.
Tỉnh Thái Nguyên triển khai đầy đủ các chính sách an sinh xã hội, bảo đảm người dân nghèo được tiếp cận các dịch vụ thiết yếu như y tế, giáo dục, nước sạch, nhà ở và thông tin. Các sở, ngành liên quan phải xây dựng kế hoạch cụ thể, trong đó chú trọng hỗ trợ tín dụng ưu đãi, tạo điều kiện cho người lao động nghèo và cận nghèo tìm kiếm việc làm, kể cả đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.