Thị trường sản phẩm hữu cơ đã tăng mạnh lên 188 tỷ USD vào năm 2021, và ước đạt 208 tỷ USD năm 2022. |
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), kim ngạch xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp hữu cơ của Việt Nam năm 2021 đạt 335 triệu USD, xuất khẩu tới 180 nước trên thế giới. Số lượng các nhà sản xuất tham gia trong lĩnh vực này đạt hơn 17.000 đơn vị, 555 nhà chế biến, 60 nhà xuất khẩu.
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ, nhưng vấn đề thương mại hóa sản phẩm nông nghiệp hữu cơ vẫn còn nhiều thách thức. Khó khăn chính đến từ việc người tiêu dùng chưa thực sự tin tưởng vào chất lượng sản phẩm, còn thị trường tiêu thụ nông sản hữu cơ trong nước hiện chỉ mới tập trung tại các thành phố lớn.
Tại Diễn đàn “Kết nối, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp hữu cơ và các sản phẩm chế biến”, chiều 28/9, ông Nguyễn Minh Tiến, Giám đốc Trung tâm Xúc tiến Thương mại nông nghiệp (Bộ NN&PTNT) nhận định, người tiêu dùng đang dần nhận thức rõ tầm quan trọng của sản phẩm hữu cơ đối với môi trường, sức khỏe con người và tạo ra hệ sinh thái bền vững, nhất là trong bối cảnh hậu Covid-19.
Theo ông Tiến, doanh số thực phẩm hữu cơ bán lẻ trên toàn cầu đã đạt 129 tỷ USD vào năm 2020, sau đó tăng mạnh lên 188 tỷ USD vào năm 2021, và ước đạt 208 tỷ USD năm 2022. Bắc Mỹ và Châu Âu chiếm hầu hết doanh số bán hàng sản phẩm này với 90% thị phần, nhưng nơi đang chứng kiến sự tăng trưởng mạnh nhất là châu Á.
Thị trường nông nghiệp hữu cơ đang trở nên quan trọng ở các nước như Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Thái Lan. Nhu cầu chủ yếu đến từ rau quả hữu cơ, trong đó trái cây nhiệt đới, các loại hạt và gia vị chiếm tỷ lệ chính. Những nông sản này lại là những mặt hàng xuất khẩu chính và có lợi thế của Việt Nam.
Trong điều kiện thuận lợi trên, để phát triển thị trường hữu cơ tại Việt Nam, ông Tiến nhấn mạnh, các doanh nghiệp cần nắm bắt được các xu thế tiêu dùng của dòng sản phẩm này. Cùng với đó là xu hướng dịch chuyển sang mua sắm tại nhà, gia tăng số lượng các tiêu chuẩn bền vững và quy trình ghi nhãn mác sản phẩm về kiểm dịch động thực vật hướng tới mục tiêu bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
“Vấn đề quan trọng nhất trong nông nghiệp hữu cơ là xây dựng lòng tin đối với người tiêu dùng. Điều này cần cả quá trình với sự nỗ lực từ nhiều bên, từ cơ quan quản lý Nhà nước, doanh nghiệp sản xuất, hệ thống phân phối và chính người tiêu dùng. Ngoài ra, các sản phẩm hữu cơ cần đa dạng chủng loại, mẫu mã để người tiêu dùng có thể dễ dàng tiếp cận và sử dụng”.
Quan trọng nhất là chữ tín
Đồng quan điểm với đại diện cơ quan quản lý Nhà nước, ông Nguyễn Hồng Lam, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Quế Lâm nhận định, nút thắt trong phát triển nông nghiệp hữu cơ hiện nay nổi lên các vấn đề như thiếu lòng tin giữa cơ quan quản lý Nhà nước, doanh nghiệp, người nông dân và tình trạng ô nhiễm môi trường ảnh hưởng đến chất lượng nông sản hữu cơ.
“Chỉ khi nào giải quyết được những vấn đề này thì việc xây dựng chuỗi cung ứng nông nghiệp hữu cơ mới có thể coi là thực sự thành công”, ông Lam khẳng định.
“Định hướng chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp hữu cơ hiện nay rất đầy đủ, rộng mở. Vấn đề là cách thức tổ chức, triển khai thực hiện như thế nào. Trong đó, quan trọng nhất là xây dựng được lòng tin giữa nhà sản xuất, người tiêu dùng, các cơ quan quản lý Nhà nước, nhà khoa học và địa phương”.
Từ nhận định đó, Chủ tịch Tập đoàn Quế Lâm cho rằng, về lâu dài, Nhà nước phải xây dựng cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng chuỗi liên kết sản xuất, đặt hàng doanh nghiệp, nhà khoa học, thậm chí là nông dân. Theo ông chỉ có cơ chế đặt hàng mới có thể sản xuất theo tín hiệu thị trường, đảm bảo được niềm tin cho sản phẩm.
“Chúng ta phải thay đổi tư duy, nhận thức rằng sản xuất nông nghiệp tạo ra sản phẩm chất lượng là phục vụ cho chính chúng ta. Chứ đừng nghĩ mơ hồ là sản xuất ra sản phẩm chất lượng chỉ để phục vụ xuất khẩu mà thôi”, ông Nguyễn Hồng Lam nhấn mạnh.
Cũng liên quan đến vấn đề xây dựng lòng tin, ông Bùi Hồng Quân, Phó Chủ tịch HĐQT Vinamit khẳng định, để làm nông nghiệp hữu cơ thực chất thì điều quan trọng là doanh nghiệp phải đảm bảo uy tín, thực hiện đúng cam kết về chất lượng, mẫu mã sản phẩm khi tới tay nhà phân phối và người tiêu dùng.
"Khi bắt đầu kinh doanh nông sản hữu cơ, doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn như thiếu chuyên gia, chuyên viên kỹ thuật cao, kinh phí, vốn đầu tư... Đây sẽ là thách thức rất lớn đối với cộng đồng doanh nghiệp khi mới bắt tay làm nông nghiệp hữu cơ".
Ông Quân cũng thẳng thắn chia sẻ, hiện nay công ty Vinamit của ông vẫn chưa thể tin tưởng được một số nhà cung cấp, do nhiều đơn vị chưa đảm bảo đúng theo cam kết ban đầu.
“Điều đó gây ra trở ngại cho các bên trong chuỗi cung ứng nông nghiệp hữu cơ. Vì vậy, các khâu cần làm một cách uy tín vai trò của mình, để gây dựng lòng tin, sự chuyên nghiệp, tạo cơ sở cho thị trường nông sản hữu cơ vận hành tốt, đáp ứng không chỉ nhu cầu trong nước mà còn cho xuất khẩu”, ông Bùi Hồng Quân đưa ra ý kiến.
Năm 2021, diện tích đất nông nghiệp hữu cơ Việt Nam trên 174.000 ha (tăng 47% so với năm 2016), đứng thứ 9/10 nước có diện tích đất nông nghiệp hữu cơ lớn nhất châu Á. Trong đó, diện tích đất trồng trọt đạt hơn 63.000 ha, diện tích nuôi trồng thủy sản hơn 100.000 ha, diện tích thu hái tự nhiên nông nghiệp hơn 12.000 ha.
Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững đến năm 2030, tầm nhìn đến 2050, đánh dấu lần đầu tiên ngành nông nghiệp Việt Nam đặt ra kế hoạch cụ thể, từng bước đưa Việt Nam trở thành quốc gia có trình độ sản xuất nông nghiệp hữu cơ ngang bằng các nước tiên tiến trên thế giới.
Mục tiêu của Việt Nam đến năm 2030, diện tích đất nông nghiệp sản xuất hữu cơ đạt khoảng 2,5 - 3 % tổng diện tích đất nông nghiệp, giá trị sản phẩm trên 1 ha đất hữu cơ cao gấp 1,5 - 1,8 lần so với sản xuất phi hữu cơ.
Nguồn: Trung tâm Xúc tiến Thương mại nông nghiệp