COVID-19 đã làm giảm tác động của EVFTA đến khả năng tạo việc làm

việc làm EVFTA
17:22 - 26/02/2022
EVFTA sẽ tác động mạnh đến nhóm lao động từ 15 - 34 tuổi.
EVFTA sẽ tác động mạnh đến nhóm lao động từ 15 - 34 tuổi.
0:00 / 0:00
0:00
Hiệp định của EVFTA được kỳ vọng sẽ tạo ra khoảng gần 200 nghìn việc làm vào năm 2025, nhưng do những biện pháp kiểm soát dịch bệnh trong những năm đầu thực thi đã làm giảm tác động tích cực của Hiệp định này.

Hiệp định EVFTA sẽ tạo ra 146.000 việc làm giai đoạn 2022 - 2025

Dự báo về tiềm năng của Hiệp định EVFTA đến việc làm giai đoạn 2022 – 2025, ông Phạm Ngọc Toàn, Giám đốc Trung tâm phân tích và dự báo chiến lược, Viện Khoa học Lao động và Xã hội (Bộ LĐTB&XH) cho biết, đến 2025 cơ bản EVFTA đem lại lợi ích cho người lao động.

Cụ thể, EVFTA sẽ tạo thêm khoảng 146 nghìn việc làm cho giai đoạn 2022 - 2025, bình quân khoảng 36,5 nghìn việc làm/năm (tăng 0,059% so với kịch bản không có EVFTA). Khu vực thành thị tăng 14,2 nghìn việc làm (chiếm 39%), nông thôn tăng thêm 22,3 nghìn việc làm (chiếm 61%).

EVFTA sẽ tác động mạnh đến nhóm lao động từ 15 - 34 tuổi và tiếp tục tạo việc làm cho nhóm lao động trình độ thấp, lao động chưa có bằng cấp chứng chỉ (khoảng 23,3 nghìn người, tăng 0,006%).

Một số ngành có tác động mạnh từ hiệp định này, gồm: Xây dựng (0,065%); công nghiệp chế biến, chế tạo (0,063%); hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm (0,061%)…

Bên cạnh đó, EVFTA còn làm tăng tỷ lệ lao động tham gia BHXH trong các ngành. Tiền lương bình quân của người lao động có thể tăng khoảng 11%, nhóm có trình độ kỹ thuật cao được hưởng lợi nhiều. Hiệp định thương mại Việt Nam - EU cũng sẽ tạo ra cơ hội để người lao động có việc làm thỏa đáng, đặc biệt đối với lao động nữ, nhưng vẫn tập trung ở nhóm có trình độ kỹ thuật cao và lao động khu vực thành thị.

Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, COVID-19 đã làm giảm tác động của Hiệp định đến việc làm, do giai đoạn tạo nhiều việc làm nhất trong những năm đầu thực thi đã bị ảnh hưởng của các biện pháp kiểm soát dịch bệnh.

Cụ thể, đến năm 2025, số việc làm dự kiến tăng thêm là 187 nghìn việc làm, thấp hơn so với kịch bản không có đại dịch khoảng 10 nghìn việc làm/năm và đạt 266 nghìn việc làm vào năm 2030.

COVID-19 cũng làm cho tốc độ thay đổi tiền lương chậm hơn so với dự kiến. Báo cáo của Bộ KH&ĐT chỉ ra, nhóm quản lý và lao động chuyên môn, kỹ thuật cao sẽ có mức lương bình quân tăng cao nhất. Lương lao động có chuyên môn sẽ tăng thêm 1,71% vào năm 2025 và 1,73% vào năm 2030); lương nhóm quản lý sẽ tăng 1,64% vào năm 2025 và 1,76% năm 2030.

Đào tạo lao động là giải pháp để thích ứng với tình hình mới

Theo ông Phạm Ngọc Toàn, đại dịch COVID-19 đã làm thay đổi hình thức làm việc trong doanh nghiệp. Người lao động sẽ chưa thích nghi kịp với quá trình chuyển đổi số/hình thức làm việc mới của doanh nghiệp.

Hậu COVID-19 là thời điểm cần đảm bảo nhân lực cho phục hồi sản xuất và tận dụng cơ hội phục hồi do EVFTA đem lại. Tuy nhiên, sự thiếu hụt nguồn cung lao động cục bộ lại đang diễn ra ở một số địa phương.

Nguyên nhân có thể thấy từ việc dịch chuyển lao động quay trở lại các thành phố, các khu công nghiệp chậm. Đây cũng là những nơi mà người lao động phải đối mặt với điều kiện sống bấp bênh, nảy sinh tâm lý e ngại dịch bệnh.

Mô hình thu hút lao động nhập cư vào các thành phố và khu công nghiệp cũng đang lộ sự rủi ro và tính không bền vững khi người lao động không có cơ hội “an cư lập nghiệp”. Sự mất cân đối cung cầu về cơ cấu lao động cũng là khó khăn để ổn định nhân lực cho các doanh nghiệp phục hồi trở lại.

Sau đại dịch, các doanh nghiệp vẫn phải đối mặt với thực trạng thiếu lao động, nhất là lực lượng có tay nghề. Sự quay trở lại của lực lượng lao động nhưng chưa được đào tạo để phù hợp với ngành nghề mới càng làm tăng thêm trở ngại cho các doanh nghiệp.

Vấn đề về tiền lương, thu nhập, điều kiện làm việc của người lao động sẽ tiếp tục được thỏa thuận giữa doanh nghiệp và người lao động. Theo đó, doanh nghiệp muốn giữ chân lao động để phục vụ sản xuất thì người lao động cần được đảm bảo môi trường làm việc an toàn và được hưởng lương thưởng tương xứng với những đóng góp của họ vào sự phát triển của doanh nghiệp và sự phát triển kinh tế tại các địa phương.

Theo ông Toàn, để hiệp định EVFTA phát huy hiệu quả đối với việc tạo việc làm, việc làm có thu nhập, việc làm bền vững thì cần giải quyết các vấn đề trên một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, sự kịp thời của các gói hỗ trợ của Chính phủ đến doanh nghiệp sẽ giúp doanh nghiệp phục hồi và tận dụng được cơ hội do EVFTA đem lại, tạo việc làm cho nền kinh tế.

Ngoài ra, việc đào tạo, đào tạo lại và đào tạo bổ sung cho lao động để đáp ứng sự thay đổi ngành nghề/hình thức việc làm cũng như tăng năng suất lao động, tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp là hướng đi thiết yếu.

Đưa ra khuyến nghị cho các doanh nghiệp tận dụng tốt cơ hội từ EVFTA, TS. Lê Đăng Doanh, Nguyên Viện trưởng Viện quản lý kinh tế Trung ương cho rằng, EVFTA thúc đẩy Việt Nam cải cách thể chế, nhất là những vấn đề công đoàn, vấn đề người đại diện, quyền lợi người lao động. Trong đợt Tết Nguyên đán vừa qua đã có 28 cuộc đình công, trong đó có những cuộc đình công kéo dài cả tuần thu hút 5.000 công nhân.

Như vậy, những đề xuất của EVFTA sẽ tạo điều kiện cho người lao động được thỏa thuận bảo vệ quyền lợi của mình mà Việt Nam đang chậm hình thành và thông qua những khuôn khổ pháp luật này.

Ảnh tác giả

“Lợi thế về lao động của Việt Nam hiện nay không phải vĩnh viễn, do đó có thể hướng tới việc tận dụng cơ hội từ EVFTA để ứng dụng máy móc, công nghệ vào cải thiện chất lượng lao động. Việt Nam cần hợp tác chặt chẽ hơn nữa với các đối tác liên minh châu Âu để tận dụng cơ hội từ EVFTA vào cách mạng công nghệ 4.0 và giảm thiểu những thách thức đang phải đối mặt”.

TS. Lê Đăng Doanh, Nguyên Viện trưởng Viện quản lý kinh tế Trung ương

Tin liên quan

Đọc tiếp