Việt Nam thu hẹp khoảng cách năng suất lao động với một số nước ASEAN

LAO ĐỘNG Việt nAM
10:00 - 08/02/2023
Năng suất lao động của Việt Nam năm 2020 đạt 18,4 nghìn USD.
Năng suất lao động của Việt Nam năm 2020 đạt 18,4 nghìn USD.
0:00 / 0:00
0:00
Theo Tổng cục Thống kê, tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2011 – 2020 của Việt Nam đạt trung bình 5,4%/năm, cao hơn mức tăng bình quân của Malaysia, Singapore, Thái Lan, Philippine, Indonesia và Hàn Quốc.

Đây là những thông tin được công bố trong Báo cáo Năng suất lao động Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020, thực trạng và giải pháp do Tổng cục Thống kê (GSO) thực hiện mới công bố đầu tháng 2/2023.

Theo báo cáo, năm 2020, năng suất lao động của toàn nền kinh tế theo giá hiện hành ước tính đạt 150,1 triệu đồng/lao động (tương đương khoảng 6.466 USD/lao động), gấp 2,1 lần năm 2011 (70 triệu đồng/lao động).

Giai đoạn 2011 - 2015, năng suất lao động của Việt Nam luôn có xu hướng tăng. Bình quân mỗi năm trong giai đoạn 2011 - 2015, tốc độ tăng năng suất lao động toàn nền kinh tế đạt 4,53%.

Giai đoạn 2016 - 2020, tốc độ tăng năng suất lao động từ năm 2016 đến năm 2019 đều đạt trên 6%. Riêng năm 2020 do ảnh hưởng của dịch Covid-19 nên tốc độ tăng năng suất lao động chậm lại nhưng vẫn đạt gần 5%.

Bình quân mỗi năm trong giai đoạn 2016 - 2020, tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam cao hơn tốc độ tăng bình quân của giai đoạn 2011 - 2015 là 1,52 điểm phần trăm.

Theo GSO, con số này vượt mục tiêu tăng năng suất lao động bình quân hằng năm đề ra trong Nghị quyết số 05-NQ/TW Hội nghị lần thứ IV Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “Giai đoạn 2016 - 2020: tốc độ tăng năng suất lao động bình quân hằng năm cao hơn 5,5%”.

Tính theo sức mua tương đương (PPP 2017), năng suất lao động của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 tăng bình quân 5,4%/năm, cao hơn mức tăng bình quân của Malaysia (1,3%/năm); Hàn Quốc (1,5%/năm); Singapore (1,7%/năm); Thái Lan (2,2%/năm); Indonesia (2,6%/năm); Philippines, (3,5%/năm). Nhờ đó, Việt Nam đã thu hẹp được khoảng cách tương đối với một số nước ASEAN có trình độ phát triển cao hơn.

So với một số nền kinh tế lớn của châu Á, khoảng cách tương đối về năng suất lao động của Việt Nam so với Hàn Quốc giảm từ 6,1 lần xuống 4,3 lần; Nhật Bản từ 6,8 lần xuống 4,1 lần.

Tuy nhiên, mức năng suất lao động của Việt Nam hiện nay vẫn rất thấp so với các nước trong khu vực, đáng chú ý là chênh lệch tuyệt đối vẫn tiếp tục gia tăng.

Tính theo PPP 2017, năng suất lao động của Việt Nam năm 2020 đạt 18,4 nghìn USD, chỉ bằng 11,3% mức năng suất của Singapore; 23% của Hàn Quốc; 24,4% của Nhật Bản; 33,1% của Malaysia; 59,1% của Thái Lan; 60,3% của Trung Quốc; 77% của Indonesia và bằng 86,5% Philippines.

Năng suất lao động của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á chỉ cao hơn một số nước: Campuchia (gấp 2,4 lần); Myanmar (1,6 lần); Lào (gấp 1,2 lần).

Bên cạnh đó, chênh lệch tuyệt đối mức năng suất lao động (PPP 2017) của Singapore và Việt Nam tăng từ 130,4 nghìn USD năm 2011 lên 144,1 nghìn USD năm 2020; Hàn Quốc từ 58,8 nghìn USD lên 61,8 nghìn USD; Trung Quốc từ 6,1 nghìn USD lên 12,1 nghìn USD; Ấn Độ từ 1,3 nghìn USD lên 1,8 nghìn USD.

“Điều này cho thấy khoảng cách và thách thức mà nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt để có thể bắt kịp mức năng suất lao động của các nước có trình độ phát triển hơn là khá lớn”, GSO nhận định.

Tốc độ tăng năng suất lao động/giờ làm việc cao hơn hầu hết các nước ASEAN

Năng suất lao động tính trên giờ làm việc thể hiện bức tranh rõ ràng về sự thay đổi chỉ tiêu này trong nền kinh tế, do có thể kiểm soát tốt hơn tình trạng thiếu việc làm ở nhiều quốc gia đang phát triển.

Cụ thể, báo cáo của GSO chỉ ra, tốc độ tăng năng suất lao động trên một giờ làm việc của Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2019 cao hơn hầu hết các nước ASEAN và trong khu vực.

Theo số liệu của Tổ chức năng suất Châu Á, năng suất lao động trên một giờ làm việc tính theo sức mua tương đương (PPP 2017) của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2019 tăng bình quân 5,27%/năm.

Mức tăng này cao hơn mức tăng bình quân của Brunei (0,54%/năm); Malaysia (2,28%/năm); Lào (2,47%/năm); Singapore (2,69%/năm); Campuchia (2,99%)/năm); Indonesia (3,43%/năm); Philippines (4,1%/năm); Thái Lan (4,52%/ năm); Myanmar (5,72%/năm) và cao hơn Nhật Bản (0,95%/năm); Hàn Quốc (2,84%/năm); chỉ thấp hơn Ấn Độ (5,42%/năm); Trung Quốc (7,16%/năm).

Tuy nhiên, nếu tính năng suất lao động trên một giờ làm việc theo sức mua tương đương (PPP 2017) năm 2019 của Việt Nam chỉ bằng 8,99% mức năng suất của Singapore; 9,13% mức năng suất của Brunei; 23,21% của Malaysia; 40,31% của Thái Lan; 49,31% của Indonesia; 57,35% của Philippines; 99,51% của Lào.

Năng suất lao động của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á chỉ cao hơn Campuchia (gấp 2 lần) và Myanmar (gấp gần 1,6 lần). So với các nền kinh tế lớn của Châu Á, năng suất lao động theo sức mua tương đương (tính theo PPP 2017) năm 2019 của Việt Nam chỉ bằng 13,12% Nhật Bản; 16,04% Hàn Quốc; 47,49% Trung Quốc và 77,76% Ấn Độ.

Theo GSO, có nhiều nguyên nhân dẫn đến năng suất lao động của Việt Nam còn ở mức thấp so với một số quốc gia trong khu vực, trong đó phải kể đến tiền lương tối thiểu, mức độ chi cho hoạt động nghiên cứu và phát triển trong doanh nghiệp.

Chi phí đầu tư của doanh nghiệp cho nghiên cứu phát triển còn thấp.

Chi phí đầu tư của doanh nghiệp cho nghiên cứu phát triển còn thấp.

Năm 2020, tiền lương tối thiểu của Việt Nam là 190 USD/tháng/người, bằng 81,3% so với Philippines; 14,1% so với Nhật Bản; 12,5% so với Hàn Quốc và 59,7% so với Trung Quốc. Mặc dù sau 10 năm, tiền lương tối thiểu của Việt Nam đã tăng gấp gần 3 lần nhưng vẫn thuộc nhóm thấp so với các nước trong khu vực.

Tuy nhiên khoảng cách cũng đã có sự thu hẹp đáng kể như với Thái Lan tăng từ 42,6% năm 2011 lên 82,3% năm 2019; Philippines tăng từ 30,8% năm 2011 lên 81,3% năm 2020; Nhật Bản từ 5% lên 14,1%; Hàn Quốc từ 9% lên 12,1%.

Tỷ lệ các doanh nghiệp có chi cho nghiên cứu và phát triển của Việt Nam cũng rất khiêm tốn so với các nước trong khu vực. Năm 2017, tỷ lệ này của Việt Nam đã tăng lên 0,53% trong khi Thái Lan là 1%; Singapore là 1,94%; Nhật Bản là 3,21%; Hàn Quốc là 4,55%; Trung Quốc là 2,15%; Ấn Độ là 0,67%.

Năng suất lao động chiếm tỷ trọng lớn trong tốc độ tăng GDP

Trong giai đoạn 2011 - 2020, tăng năng suất lao động ngày càng có mức đóng góp ý nghĩa đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Thống kê của GSO cho thấy, trước năm 2015, độ doãng giữa tốc độ tăng GDP và tốc độ tăng năng suất lao động lớn hơn nhiều so với giai đoạn từ năm 2015 trở lại đây. Điều này cho thấy, tăng trưởng kinh tế dựa vào tăng năng suất lao động ngày càng tăng lên.

Nhìn chung, trong 10 năm từ 2011 - 2019, GDP luôn có tốc độ tăng từ 5,50% trở lên, riêng năm 2020 chỉ đạt 2,87% do dịch Covid-19, nhưng cả giai đoạn 2011 - 2020 vẫn có tốc độ tăng bình quân năm trên 6%.

Trong tốc độ tăng lên của GDP thì chủ yếu là do tăng năng suất lao động (bình quân 10 năm tăng GDP do tăng năng suất lao động 5,33% với tỷ phần đóng góp là 85,87%, còn tăng lao động làm tăng 0,88% với tỷ phần đóng góp là 14,13%).

“Tốc độ tăng GDP do tăng năng suất lao động chiếm tỷ trọng lớn và xu thế ngày càng tăng, chứng tỏ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đang theo hướng phát triển bền vững”, báo cáo khẳng định.

Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực mạnh mẽ trong việc cải thiện năng suất lao động cả về giá trị và tốc độ, nhưng để bắt kịp các nước trong khu vực, Việt Nam cần phải có những đột phá trong việc cải thiện năng suất quốc gia.

Theo GSO, để thực hiện được mục tiêu tăng trưởng thì chìa khóa chính là nâng cao năng suất lao động, điều này có ý nghĩa quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Nếu năng suất thấp sẽ là yếu tố cản trở tăng trưởng kinh tế cả về tốc độ và tính bền vững.

Do đó, thúc đẩy tăng năng suất lao động hiện đang là mục tiêu quan trọng được Việt Nam chú trọng. Đặc biệt là nâng cao năng suất lao động trong doanh nghiệp - khu vực đóng vai trò quyết định tới nâng cao năng suất lao động của toàn bộ nền kinh tế.

Tin liên quan

Đọc tiếp