Đó là một trong những kết quả thuộc nghiên cứu “Đánh giá tác động kinh tế của chính sách hôn nhân cùng giới tại Việt Nam” vừa được Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE) và Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chiến lược Việt Nam (VESS) công bố hôm 22/12.
Kết quả này dựa trên một mô hình sơ khởi với 2 biến số là tỷ lệ người LGBT trên tổng dân số Việt Nam và chênh lệch năng suất lao động do sự thiếu dung hợp xã hội, tức là mức độ tăng/ giảm năng suất lao động của người LGBT trong trường hợp được xã hội dung hợp hay không.
(Nguồn: VESS) |
Theo đó, biến (s) là tỷ lệ người LGBT trên tổng dân số được giả định khả năng trong miền xác định: [9%-11%]. Con số này một phần dựa trên khảo sát của IPSOS (2021) rằng trung bình toàn cầu có 9% số người được hỏi tự nhận là người LGBT, 11% không biết hoặc không nói và 80% tự xác định là người dị tính - hợp giới.
Biến (Y) là chênh lệch trong năng suất lao động do sự thiếu dung hợp xã hội, được xác định dựa trên công trình của Brenner và cộng sự năm 2010 về tỷ lệ tác động hành vi công dân tổ chức. Theo nghiên cứu này, tỷ lệ gia tăng năng suất lao động của người LGBT trong trường hợp được xã hội dung hợp nằm trong miền xác định Y = {0,18;0,38}.
Nền tảng nghiên cứu dựa trên phân tích cho thấy năng suất lao động tăng thêm của cộng đồng LGBT có tác động lan tỏa đến năng suất lao động toàn xã hội, qua đó đóng góp vào mức tăng trưởng GDP quốc gia.
(Nguồn: VESS) |
Theo kết quả mô hình này, việc công nhận hôn nhân đồng giới có thể mang lại cho Việt Nam mức gia tăng trong GDP mỗi năm từ 1,65% - 4,36% so với trường hợp không công nhận, lưu ý đây là mức tăng trong dài hạn.
Trong ngắn và trung hạn, mức tăng trưởng GDP đạt được có thể nằm trong khoảng bình quân 0,17% - 0,44%/năm ngay sau khi Luật hôn nhân đồng giới có hiệu lực.
Nguyên nhân được đưa ra là người LGBT cần có thời gian để hồi phục những chấn thương tâm lý, xã hội Việt Nam cũng cần có thời gian để dung hợp cộng đồng LGBT. Với xã hội có độ dung hợp ở mức trung bình như Việt Nam, khoảng thời gian cần thiết được ước lượng là 10 năm.
Theo iSEE và VESS, trên thực tế, tác động của việc công nhận hôn nhân đồng giới đối với tăng trưởng GDP có thể cao hơn con số đã ước lượng do về mặt lý thuyết, sẽ có hiệu ứng lan tỏa đối với nhóm người dị tính - hợp giới và toàn xã hội.
Kết quả nghiên cứu của VESS phù hợp với nhiều khảo sát và nghiên cứu trên toàn cầu rằng việc được xã hội dung hợp có ý nghĩa quan trọng trong tăng quyền của người LGBT nói chung và tăng năng suất lao động, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế nói riêng.
Chẳng hạn, một nghiên cứu do National Center for Transgender Equality (trụ sở Washington) thực hiện cho thấy 97% người chuyển giới được hỏi cho biết họ có trải nghiệm bị quấy rối và phân biệt đối xử ở nơi làm việc. Con số này với người đồng tính và song tính là 16-68%.
Một nghiên cứu khác của Harvard Business Review cho thấy doanh nghiệp đa dạng về giới, tính dục và sắc tộc có 45% xác suất cao hơn doanh nghiệp khác về thị phần và 70% xác suất cao hơn doanh nghiệp khác trong có được thị trường mới.
Có rất nhiều yếu tố giúp tăng năng suất lao động với người LGBT trong trường hợp được pháp luật công nhận và xã hội dung hợp (Nguồn: VESS) |
Ngoài ra, việc công nhận hôn nhân đồng giới dự kiến cũng sẽ kích thích những ngành kinh tế liên quan đến cộng đồng LGBT phát triển, tạo ra một khái niệm hoàn toàn mới là “khu vực kinh tế LGBT” với tiềm năng phát triển lớn. Đây là khu vực cung cấp các sản phẩm chung được tiếp thị hướng đến người LGBT hoặc các sản phẩm được thiết kế để phục vụ riêng biệt cho cộng đồng LGBT.
Dung hợp hôn nhân đồng giới: không riêng nhóm người LGBT hưởng lợi
Theo TS. Nguyễn Đức Thành, Giám đốc VESS, nền tảng bản thể luận của Nghiên cứu dựa trên một góc độ tư duy khác mang tính kiến tạo về xu hướng tính dục. Trong đó, không nhìn nhận xu hướng tính dục theo 2 cực nam - nữ, mà nhìn nhận xu hướng tính dục là một dải liên tục.
“Sự thay đổi về nhận thức luận sẽ thay đổi cách loài người nhận thức về chính họ, dẫn tới sự điều chỉnh trong phương pháp tiếp cận bao gồm cả luật pháp”, TS. Nguyễn Đức Thành nói.
Nhìn chung, việc được pháp luật thừa nhận, hoặc ít nhất được thiết chế xã hội đồng thuận sẽ giúp tăng quyền cho người LGBT, từ đó loại trừ tình trạng hôn nhân không phù hợp xu hướng tính dục, góp phần giải quyết các vấn đề dân số, củng cố chế độ hôn nhân gia đình và thành tựu bình đẳng giới và đáng nói nhất là gia tăng động lực lao động, đóng góp cho nền kinh tế.
Tại Việt Nam, tác động của việc dung hợp người LGBT có thể được nhìn nhận là đáng kể, đa chiều và được thụ hưởng bởi toàn bộ xã hội chứ không riêng nhóm người này. Chẳng hạn, nhóm nghiên cứu ước lượng việc công nhận hôn nhân cùng giới sẽ mang lại cho các ngành công nghiệp có liên quan đến tổ chức tiệc cưới và xây dựng gia đình mức tăng doanh thu từ 5,26% đến 4,36% so với trường hợp không công nhận.
Các nhà nghiên cứu kỳ vọng thành quả nghiên cứu sẽ góp phần thúc đẩy việc thay đổi nhận thức và cách tiếp cận, hướng tới điều chỉnh luật pháp để công nhận hôn nhân cùng giới với đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật như hôn nhân khác giới. Qua đó, phấn đấu đưa Việt Nam trở thành quốc gia đầu tiên tại Đông Nam Á và thứ hai tại châu Á công nhận hôn nhân cùng giới.
Theo các tổ chức quốc tế về cộng đồng LGBT, hiện nay đã có ít nhất 31 quốc gia chính thức công nhận hôn nhân đồng giới trong pháp luật của họ.
Tại Việt Nam, từ 1/1/2015, Luật Hôn nhân và gia đình sửa đổi năm 2014 có hiệu lực Quốc hội đã bỏ điều cấm kết hôn đồng giới và thay bằng điều 8, khoản 2 với nội dung: “Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính”.