Nới lỏng hơn không có nghĩa là buông lỏng
Tại tọa đàm Điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ và mục tiêu tăng trưởng trong bối cảnh mới do Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức chiều ngày 20/7, các chuyên gia cũng đặt vấn đề mặc dù lạm phát được kiểm soát rất tốt, song trong bối cảnh tình hình còn có những diễn biến phức tạp, sức ép lạm phát còn lớn, việc nới lỏng chính sách tiền tệ sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với vấn đề kiểm soát lạm phát, cũng như liên quan tới nợ xấu và an toàn hệ thống.
Theo đó, nới lỏng hơn không có nghĩa là buông lỏng. Cần làm gì để thực hiện hiệu quả việc nới lỏng hơn tiền tệ, vừa kiểm soát được tốt lạm phát theo mục tiêu, vừa thúc đẩy tăng trưởng.
Chia sẻ về vấn đề này, TS. Võ Trí Thành nhìn nhận, ổn định kinh tế vĩ mô là quan trọng nhưng hiện nay bối cảnh tạo điều kiện cho những chuyển hướng chính sách, cả về chính sách tài khóa và tiền tệ mà về cơ bản, hướng vào việc hỗ trợ tăng trưởng.
Đối với chính sách tài khóa, hiện nay dư địa còn khá lớn, nhất là lĩnh vực đầu tư công khi Thủ tướng có nêu rõ mục tiêu giải ngân hơn 710.000 tỷ đồng đầu tư công trong năm nay là phấn đấu đạt 95%.
Đối với chính sách tiền tệ, câu chuyện liều lượng bao nhiêu là vừa vẫn nhiều ý kiến khác nhau. Về lãi suất, mục tiêu của Chính phủ là lãi suất có thể giảm từ 1-1,5 điểm phần trăm từ nay đến cuối năm. Chính sách tiền tệ có thể nới lỏng nhưng về nguyên tắc quản trị thì không thể để "đồng tiền dễ dãi". Dư địa hạ lãi suất vẫn còn nhưng tính toán con số hạ 1-1,5 điểm phần trăm, theo vị chuyên gia này, có các lý do sau:
Thứ nhất, nới lỏng chính sách tiền tệ để vừa đạt được mục tiêu tăng trưởng tín dụng, đồng thời vẫn kiểm soát được lạm phát theo mục tiêu đề ra.
Thứ hai, là liên quan đến tỷ giá. Cách đây 1-2 tuần, có thời điểm tỷ giá đồng Việt Nam tăng mạnh. Giới hạn của giảm lãi suất không phải chỉ vấn đề huy động tiền gửi mà còn là vấn đề tỷ giá, khi đây là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến câu chuyện dịch chuyển vốn giữa đồng Việt Nam và USD.
Thứ ba, vị chuyên gia này nhấn mạnh, trong bất cứ tình huống nào cũng phải bảo đảm an toàn hệ thống. Bên cạnh thanh khoản, nếu đồng tiền trở nên dễ dãi thì mục tiêu hướng đến thúc đẩy tăng trưởng, sản xuất kinh doanh có thể bị ảnh hưởng khi dòng tiền này không đổ vào sản xuất kinh doanh mà "đi chơi tài sản tài chính".
Giảm lãi suất đến đâu là một thách thức đối với NHNN. TS. Võ Trí Thành nhìn nhận và cho rằng, vấn đề lạm phát không phải quá lớn mà là 2 vấn đề: Dòng tiền đi vào đâu và tỷ giá.
"Tôi đồng ý với ý kiến lãi suất không phải liều thuốc vạn năng mặc dù rất quan trọng, mà cần kết hợp với nhiều chính sách khác như kích cầu tiêu dùng, hỗ trợ người lao động, kích cầu du lịch, đầu tư công, giải quyết khó khăn cho xuất khẩu; tạo điều kiện để người dân và doanh nghiệp tiếp cận vốn tốt hơn", ông Thành nhấn mạnh.
Định hướng kênh tín dụng vào 5 lĩnh vực ưu tiên
Đồng tình với ý kiến của TS. Võ Trí Thành, trong khuôn khổ tọa đàm, TS. Cấn Văn Lực khẳng định, lạm phát không phải vấn đề Việt Nam quá lo lắng trong năm 2023. Ngoài 3 lý do TS. Thành phân tích, ông Lực cung cấp thêm 3 số liệu để củng cố niềm tin chính sách.
Một là cung tiền, theo số liệu ông Lực đưa ra, đến ngày 30/6 thì cung tiền mới là 2,7%, thấp hơn so với mức 3,8% cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức từ 4-5%, thậm chí là 7% của năm 2019. Tức là hiện nay việc cung tiền ra nền kinh tế rất thấp.
Chỉ số thứ hai là vòng quay tiền, đây là yếu tố tác động lạm phát rất rõ. Vòng quay tiền 6 tháng đầu năm chỉ đạt 0,67 lần, tức là tương đương vòng quay tiền thấp của cả năm 2022. Tất nhiên, theo ông Lực, từ đây đến cuối năm, lượng cung tiền được tung ra, vòng quay tiền nhanh hơn một chút, nhưng rõ ràng không quá quan ngại.
TS. Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách Tài chính - tiền tệ Quốc gia |
Cuối cùng, mặt bằng giá cả của cả thế giới và Việt Nam năm nay về cơ bản tương đối ổn định. Và lạm phát của thế giới đang giảm, sức ép "nhập khẩu lạm phát" từ bên ngoài cũng không còn quá đáng kể.
Liên quan đến vốn tín dụng, theo ông Lực phải định hướng kênh tín dụng vào 5 lĩnh vực ưu tiên, bao gồm xuất khẩu, nông nghiệp, công nghệ cao, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ.
"Ngoài ra, tập trung vào 3 động lực tăng trưởng của nền kinh tế. Những gì đang xuất khẩu tốt thì cần vốn thì phải bơm vốn ngay. Gói tín dụng 15.000 tỷ với lâm thủy sản vừa được kích hoạt, với những sản phẩm đang xuất khẩu tốt như cà phê, gạo,... cần vốn thì phải sẵn sàng có những gói tín dụng mới", ông Lực đề xuất.
Tiếp đến là lĩnh vực đầu tư, đặc biệt liên quan đến đầu tư xây dựng và bất động sản, trong đó có nhà ở xã hội, cần tập trung nguồn lực, đẩy mạnh giải ngân trong thời gian tới.
Cuối cùng là kích cầu tiêu dùng, theo vị chuyên gia này, cần linh hoạt và phù hợp điều kiện cho vay tiêu dùng.
TS. Võ Trí Thành và ông Đậu Anh Tuấn - Ảnh: VGP |
Ngành hàng nào tiềm năng, đề nghị Chính phủ có những chương trình, gói tín dụng riêng
Đứng từ góc độ doanh nghiệp, ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng ban Pháp chế, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) nhấn mạnh, mặt bằng lãi suất cũng là một câu chuyện, câu chuyện quan trọng nữa là khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp.
Ông Tuấn khẳng định, hiện nay sức khỏe doanh nghiệp tại nhiều ngành hàng đang là một vấn đề gay go. Có nhiều yếu tố tác động đến thực trạng này. Trước hết là thị trường trong và ngoài nước, thị trường xuất khẩu hiện nay đối với một số ngành hàng đang giảm. Rõ ràng trong bối cảnh sản xuất, kinh doanh cầm chừng với mức độ chiếm tỷ trọng tương đối so với nhiều năm ở mức độ trung bình thấp, hoặc là thấp thì rõ ràng nhu cầu vay vốn, khả năng vay vốn chắc chắn phải rất cân nhắc.
"Tôi đồng ý dòng vốn nên tập trung vào những ngành hàng đang tiềm năng, đang tăng trưởng tốt. Ngành hàng nào khả năng tăng trưởng còn cao thì phải nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường. Những gói tín dụng, dòng vốn tập trung vào những ngành hàng này là yếu tố rất quan trọng", ông Tuấn khẳng định.
Trong bối cảnh ấy, các ngân hàng, ngành hàng cần chủ động, ngành hàng nào rất tiềm năng thì cần chủ động có chương trình hợp tác riêng với các ngân hàng, chủ động trong việc tìm kiếm các nguồn vốn phù hợp. "Thậm chí ngành hàng nào tiềm năng, không chỉ là nông lâm thủy sản, hoàn toàn có thể đề nghị hợp tác với Ngân hàng Nhà nước, có thể đề nghị Chính phủ có những chương trình, gói tín dụng riêng dành cho ngành hàng này", đại diện VCCI đề xuất.
Ngoài ra, để chính sách tiền tệ tác động tốt nhất tới doanh nghiệp thì đồng bộ nhóm chính sách rất quan trọng.
Ông Tuấn thẳng thắn, trong khi Chính phủ rất cố gắng để giảm lãi suất, chi phí vay nhưng ở đâu đấy vẫn có những chính sách làm tăng chi phí rất lớn, thậm chí ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn vốn của doanh nghiệp. Hiện nay doanh nghiệp rất nhiều ngành hàng nói về vấn đề hoàn thuế giá trị gia tăng chậm, trực tiếp ảnh hưởng tới doanh nghiệp rất lớn về dòng vốn.
"Quốc hội vừa có Nghị quyết giảm 2% thuế VAT, đây là một nỗ lực rất lớn nhưng hiện nay với nhiều ngành hàng, một số cơ quan quản lý Nhà nước đang rục rịch tăng phí, thu lại phí. Tôi cho rằng, cần quản trị tốt lĩnh vực này thì mới điều phối tốt, và cộng hưởng chính sách là điều rất quan trọng trong thời gian tới", ông Đậu Anh Tuấn nhận định.