Ủy ban Kinh tế thẩm tra quy hoạch sử dụng đất quốc gia

CHÍNH SÁCH Việt nAM
18:22 - 29/10/2021
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh trình bày Báo cáo thẩm tra tại Phiên họp
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh trình bày Báo cáo thẩm tra tại Phiên họp
0:00 / 0:00
0:00
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế QH Vũ Hồng Thanh trình bày Báo cáo thẩm tra về dự kiến quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm

Tiếp tục Chương trình Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV, chiều 29/10, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh đã trình bày Báo cáo thẩm tra về dự kiến quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2021-2025).

Phân tích, làm rõ những nguyên nhân chưa đạt được chỉ tiêu

Trình bày Báo cáo thẩm tra tại Phiên họp, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, hồ sơ về Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2021-2025) quốc gia về cơ bản đáp ứng yêu cầu về danh mục hồ sơ theo quy định của Luật Quy hoạch, tuy nhiên, thời gian trình chưa bảo đảm quy định của pháp luật.

Theo báo cáo, đến cuối năm 2021, Chính phủ mới trình Quốc hội xem xét, thông qua Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030 là chậm so với yêu cầu thực tiễn. Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ chỉ đạo quyết liệt các bộ, ngành, địa phương triển khai ngay sau khi được Quốc hội xem xét, thông qua Nghị quyết.

Về đánh giá kết quả thực hiện Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2011-2020, Kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011-2015 và 2016-2020) quốc gia, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế cho biết, thời gian qua, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã phát huy vai trò quan trọng trong việc tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai.

Nguồn thu từ đất đai đóng góp quan trọng cho ngân sách nhà nước, phân bổ nguồn lực đất đai đã bước đầu đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo việc làm mới, tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho Nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Diện tích đất trồng lúa được bảo vệ, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, có dự trữ chiến lược và xuất khẩu, độ che phủ rừng được nâng từ 39,1% năm 2010 lên 42,01% năm 2020 góp phần bảo đảm yêu cầu bảo vệ môi trường sinh thái, giảm nhẹ thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Quy hoạch quản lý sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050

Quy hoạch quản lý sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050

Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, theo ông Vũ Hồng Thanh: "Việc đánh giá thực hiện các chỉ tiêu quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong thời gian qua, nhiều chỉ tiêu chỉ mới đề cập dưới dạng thống kê và phản ánh tình hình thực hiện, chưa đi sâu phân tích chất lượng của quy hoạch. Nhiều vấn đề tồn tại, yếu kém, bức xúc chưa được đề cập một cách đầy đủ, như vấn đề chất lượng quy hoạch, việc điều chỉnh quy hoạch nhiều lần. Có những trường hợp điều chỉnh còn tùy tiện, theo lợi ích của nhà đầu tư. Bên cạnh đó, một số tỉnh, thành phố chậm trễ trong việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối (2016 - 2020)."

Ủy ban Kinh tế đề nghị phân tích rõ hơn nguyên nhân không đạt được chỉ tiêu để rút ra bài học kinh nghiệm, nhất là các chỉ tiêu đạt dưới 50% như: đất khu công nghiệp, đất xây dựng cơ sở thể dục, thể thao, đất có di tích lịch sử - văn hóa, danh thắng, đất bãi thải, xử lý chất thải.

Rà soát, đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất giữa các quy hoạch sử dụng đất

Đối với Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế cho biết, theo quy định tại Điều 6 của Luật Quy hoạch, Quy hoạch tổng thể quốc gia là cơ sở để lập quy hoạch sử dụng đất quốc gia.

Nhưng hiện nay Quy hoạch tổng thể quốc gia vẫn chưa được phê duyệt. Tuy nhiên, Quy hoạch sử dụng đất quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 được xây dựng căn cứ vào Chiến lược, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, nhu cầu sử dụng đất của ngành, lĩnh vực, địa phương có liên quan đến việc sử dụng đất thời kỳ 2021 – 2030. Được xây dựng dựa trên điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, hiện trạng sử dụng đất, tiềm năng đất đai và kết quả thực hiện quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ trước cùng với nhu cầu sử dụng đất của các ngành, lĩnh vực và của địa phương.

Nghị quyết 751/2019/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ sở pháp lý, cho phép các quy hoạch có thể lập đồng thời, quy hoạch nào được lập, thẩm định xong trước thì được quyết định hoặc phê duyệt trước. Sau khi quy hoạch được quyết định hoặc phê duyệt, nếu có mâu thuẫn thì quy hoạch thấp hơn phải điều chỉnh theo quy hoạch cao hơn.

Để hạn chế tối đa những chồng chéo, mâu thuẫn, Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ tiếp tục rà soát, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ giữa Quy hoạch sử dụng đất thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2021-2025) quốc gia với các quy hoạch có liên quan.

Toàn cảnh phiên họp chiều 29/10

Toàn cảnh phiên họp chiều 29/10

Ngoài ra, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế cho biết, theo quy định của Luật Đất đai đã được sửa đổi, bổ sung tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 37 luật liên quan đến quy hoạch, căn cứ lập kế hoạch sử dụng đất cấp huyện là quy hoạch sử dụng đất cấp huyện (khoản 3 Điều 40) và căn cứ lập quy hoạch sử dụng đất cấp huyện là quy hoạch tỉnh (khoản 1 Điều 40).

Mặt khác, Điều 63 của Luật Đất đai quy định kế hoạch sử dụng đất cấp huyện là một trong những căn cứ để thu hồi đất. Vì vậy, để có đầy đủ căn cứ thực hiện thu hồi đất, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất giữa các quy hoạch, Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ chỉ đạo các địa phương khẩn trương hoàn thiện và trình phê duyệt quy hoạch tỉnh.

Cần có giải pháp quản lý chặt chẽ đất rừng

Đối với chỉ tiêu cụ thể về đất rừng phòng hộ, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế cho biết, theo phương án quy hoạch, trong 6 vùng kinh tế - xã hội có 2 vùng bị giảm diện tích đất rừng phòng hộ là Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, Vùng Đông Nam Bộ. Trong khi đây là những địa bàn chịu nhiều ảnh hưởng của thiên tai, bão lũ hằng năm, rất cần củng cố và mở rộng phát triển diện tích rừng phòng hộ. Ủy ban Kinh tế đã đưa ra đề nghị Chính phủ làm rõ, có giải trình cụ thể nội dung này.

Bên cạnh đó, theo Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế, thời gian qua, tình trạng phá rừng, khai thác, sử dụng đất lâm nghiệp trái phép diễn ra ở nhiều nơi, nhất là các địa phương còn nhiều rừng tự nhiên. Do đó, Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ có giải pháp quản lý chặt chẽ đất rừng, nhất là rừng tự nhiên.

Đồng thời Chính phủ cần làm rõ thời gian qua đã có quy chế quản lý, xác định khu vực và công khai diện tích rừng phòng hộ ít xung yếu, kém chất lượng ở từng địa phương, từng vùng như thế nào để tránh tình trạng tùy tiện xác định rừng phòng hộ ít xung yếu để chuyển đổi sang rừng sản xuất, ảnh hưởng xấu đến môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Về đất trồng lúa, ông Vũ Hồng Thanh cho rằng, quy hoạch đất trồng lúa đã cơ bản bám sát Kết luận số 81-KL/TW ngày 29/7/2020 của Bộ Chính trị. Trên thực tế ở một số nơi, việc sử dụng đất trồng lúa để trồng các cây khác hoặc nuôi trồng thủy sản đang diễn ra và về mặt kinh tế có thể hiệu quả hơn.

Tuy nhiên, đất chuyên trồng lúa là loại đất đặc biệt có đặc trưng riêng về thành phần lý hóa tính, cùng với hệ thống thủy lợi được đầu tư rất lớn, trong thời gian dài. Do đó, việc chuyển đổi đất chuyên trồng lúa sang sử dụng cho các mục đích nông nghiệp khác phải đi kèm điều kiện không hủy hoại các đặc trưng cơ bản nhất của đất lúa (tầng canh tác, hệ thống thủy lợi, không làm nhiễm mặn, phèn, làm ô nhiễm, thoái hóa đất). Khi đã sử dụng đất lúa cho mục đích phi nông nghiệp hoặc đất nông nghiệp khác thì cũng không dễ chuyển đổi trở lại thành đất lúa.

Để có cơ sở xem xét đề xuất cho phép quy hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng, Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ báo cáo Quốc hội về tình hình chuyển đổi trở lại đất trồng lúa sau khi đã chuyển sang cây trồng khác giai đoạn 2011-2020, đồng thời cần xác định nguyên tắc, tiêu chí cho phép chuyển đổi, khu vực có thể chuyển đổi, khu vực không cho chuyển đổi.

Tin liên quan

Đọc tiếp

Việt Nam hút 9,27 tỷ USD vốn FDI 4 tháng đầu năm

Việt Nam hút 9,27 tỷ USD vốn FDI 4 tháng đầu năm

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thực hiện tại Việt Nam 4 tháng đầu năm 2024 ước đạt 6,28 tỷ USD tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước. Đây là số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện cao nhất của 4 tháng đầu năm trong 5 năm qua.