VEPR: Tăng trưởng GDP năm nay cao nhất 2,5%, chính sách tiền tệ cần thận trọng

KINH TẾ Việt nAM
09:27 - 21/10/2021
VEPR: Tăng trưởng GDP năm nay cao nhất 2,5%, chính sách tiền tệ cần thận trọng
0:00 / 0:00
0:00
Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) vừa công bố Báo cáo Kinh tế vĩ mô quý III/2021, trong đó đưa ra hai kịch bản tăng trưởng kinh tế cho Việt Nam trong năm 2021. 

Nhiều thách thức cho đà phục hồi kinh tế

Báo cáo Kinh tế vĩ mô quý III/2021, được công bố bởi PGS.TS.Phạm Thế Anh, chuyên gia kinh tế Vĩ mô Đại học Kinh tế Quốc dân, nhận định rằng tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong năm 2021 đang đối diện nhiều thách thức lớn.

Trước hết, tăng trưởng GDP quý III giảm 6,17% là mức giảm tốc sâu nhất kể từ khi bắt đầu thống kê GDP quý đến nay. Trong đó, khu vực dịch vụ giảm 9,28%, khu vực công nghiệp và xây dựng giảm 5,02%, riêng khu vực nông lâm thủy sản là điểm sáng với mức tăng nhẹ 1,04%. Như vậy, kết thúc 9 tháng đầu năm, GDP cả nước chỉ tăng 1,42%.

Theo VEPR, nguyên nhân chính dẫn đến mức tăng trưởng âm chưa từng có trong quý III vừa qua là do tác động của tình hình phòng chống dịch nghiêm ngặt tại nhiều địa phương, đặc biệt là các khu vực trọng điểm kinh tế trên cả nước, dẫn đến gián đoạn chuỗi cung ứng, gây thiệt hại nặng nề cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và sinh kế của người dân.

Các con số thống kê cụ thể chỉ ra tính trong quý III, chỉ số PMI các tháng giảm sâu, chỉ dao động quanh mốc 40 điểm, thể hiện sự thu hẹp của các lĩnh vực sản xuất. Tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới trên cả nước chỉ đạt 36,9 nghìn, tức giảm 50,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Hàng trăm nghìn doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động, hàng triệu lao động bị ảnh hưởng bởi các chính sách tạm nghỉ việc, giãn việc.

Về phía nhà sản xuất, tính đến cuối tháng 8/2021, giá hàng hóa nhiên liệu đã tăng 33%, giá xăng dầu tăng 28%; giá nguyên vật liệu nông nghiệp dạng thô tăng 6%; giá hàng hóa đầu vào cho sản xuất công nghiệp tăng 11% và giá hàng hóa phi nhiên liệu tăng 11% so với đầu năm 2021. Đó là chưa kể chi phí logistics, vận tải tăng mạnh ở mọi loại hình. Bên cạnh đó, các chi phí liên quan đến kiểm soát dịch bệnh cũng trở thành gánh nặng đáng kể cho doanh nghiệp trong vùng dịch.

Về phía tiêu dùng, các thành phần của tổng cầu trong nghiên cứu của VEPR đều cho thấy sự suy yếu rõ rệt trong quý III. Doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong quý III giảm mạnh 28,3% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó du lịch lữ hành giảm mạnh 94%, lưu trú, ăn uống và các dịch vụ khác giảm hơn 50%, vận tải hành khách và hàng hóa trong nước lần lượt giảm 70% và 30%, lượng khách quốc tế hoàn toàn biến mất.

Về đầu tư, trong quý III/2021, tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 697,2 nghìn tỷ đồng, giảm 9,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, vốn đầu tư khu vực Nhà nước giảm 20,6%, khu vực kinh tế ngoài Nhà nước giảm 1,4% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm 20,7%. Số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tính đến cuối tháng 9 giảm mạnh về số lượng (giảm 37,8% so với cùng kỳ năm ngoái). Vốn FDI tuy có tăng về vốn đăng ký (20,6%) nhưng lại giảm về vốn thực hiện (-3,5%).

Về thương mại quốc tế, báo cáo của VEPR chỉ ra rằng mặc dù tiếp tục được hưởng lợi từ các Hiệp định thương mại tự do (FTA) và dịch chuyển dòng vốn đầu tư quốc tế nhưng tăng trưởng thương mại của Việt Nam lại có xu hướng giảm dần qua các quý của năm. Kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đầu năm tăng tới 18,8% so với cùng kỳ năm ngoái, nhưng riêng quý III chỉ tăng 5,2%; kim ngạch nhập khẩu 9 tháng đầu năm tăng 30,5% so với cùng kỳ năm ngoái, nhưng riêng quý III chỉ là 22,6%. Cán cân thương mại 9 tháng đầu năm thâm hụt khoảng 2,55 tỷ USD, so với mức thặng dư 16,66 tỷ USD cùng kỳ năm ngoái.

Về rủi ro lạm phát, theo báo cáo của VEPR, chỉ số lạm phát trong quý III tăng khoảng 2,51% so với cùng kỳ năm ngoái, CPI 9 tháng đầu năm tăng bình quân 1,82%, mức tăng khá thấp so với những năm gần đây. Tuy nhiên, chỉ số giá chung của nền kinh tế (GDP Deflator) quý III lại tăng tới 23% so với cùng kỳ năm ngoái, một con số rất lớn, phản ánh sự tăng giá nguyên vật liệu đầu vào, chi phí logistics và các chi phí phòng chống dịch bệnh. Mức tăng chi phí này được nhận định sớm muộn sẽ chuyển lên vai người tiêu dùng thông qua tăng giá tiêu dùng một khi tổng cầu phục hồi, qua đó khiến áp lực lạm phát tăng thêm.

Bên cạnh đó, có hiện tượng đứt gãy trong lưu thông hàng hóa, nông dân được mùa nhưng không tiêu thụ được sản phẩm. Tình trạng này có thể dẫn tới việc thu hẹp sản xuất, dẫn đến nguy cơ giá thực phẩm cao hơn trong dịp cuối năm.

Về tín dụng, lãi suất liên ngân hàng giảm mạnh trong quý III phản ánh thanh khoản dồi dào của nền kinh tế. Cung tiền (M2) tăng 4,95% từ đầu năm đến nay, thấp hơn nhiều so với con số tương ứng của các năm trước. Tăng trưởng huy động chỉ đạt 3,15%. Tăng trưởng tín dụng đạt 5,47%, thể hiện sự khó khăn trong hấp thu vốn của nền kinh tế.

Tăng trưởng kinh tế cao nhất 2,5%, khuyến nghị chính sách tiền tệ thận trọng

Trước những thách thức như vậy, VEPR đưa ra hai kịch bản cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong năm 2021.

Ở kịch bản xấu: dự báo tăng trưởng GDP đạt 1-1,5% trong giả thiết dịch bệnh có nguy cơ tái bùng phát, tình trạng “đóng-mở” lặp lại ở một số nơi xuất hiện các ca lây nhiễm gây thiệt hại đến sản xuất, tình trạng đơn hàng tiếp tục rời khỏi Việt Nam do không đảm bảo được tiến độ sản xuất, nguy cơ thiếu hụt lao động, chi phí sản xuất tăng cao và nhiều ngành thu hẹp sản xuất.

Trong kịch bản này, ngành nông lâm thủy sản tiếp tục là trụ đỡ vững chắc của nền kinh tế với mức tăng trưởng từ 2,0-2,5%; ngành công nghiệp và xây dựng phục hồi với mức tăng trưởng 3,0-3,5% và ngành dịch vụ tiếp tục nằm trong lãnh thổ tiêu cực với mức giảm tốc 0,5-1%.

Ở kịch bản tốt: dự báo tăng trưởng GDP đạt 2-2,5% trong giả thiết cả nước đã thống nhất được các biện pháp thích ứng với dịch bệnh và vẫn đảm bảo sản xuất lưu thông hàng hóa không bị đứt gãy, hoạt động sản xuất tiêu dùng phục hồi, các trung tâm kinh tế hoàn thành kế hoạch tiêm chủng vắc xin ngay trong nửa đầu quý IV và tình trạng phong tỏa như quý III không lặp lại.

Trong kịch bản này, ngành nông lâm thủy sản tăng trưởng vững chắc 2,7-3,2%, ngành công nghiệp và xây dựng trở thành động lực phục hồi chính với mức tăng trưởng 4,0-4,5% trong khi ngành dịch vụ phục hồi nhẹ 0-0,5%.

VEPR khuyến nghị Việt Nam không thể tiếp tục sử dụng các biện pháp chống dịch cực đoan, đặc biệt ở những khu vực có tỷ lệ tiêm chủng cao. Triển vọng tăng trưởng phụ thuộc lớn vào chiến lược ứng xử với đại dịch trong thời gian tới.

Thêm vào đó, VEPR nhận định lạm phát do chi phí đẩy là một rủi ro cần phải được giám sát chặt chẽ. Theo VEPR, dư địa chính sách tiền tệ hiện nay còn lại hạn chế do sức ép lạm phát do chi phí đẩy cũng như rủi ro bong bóng tài sản. Ngoài ra, mặt bằng lãi suất tương đối thấp dẫn đến việc mở rộng chính sách tiền tệ cũng không có quá nhiều hiệu ứng tích cực với nền kinh tế do khả năng hấp thụ vốn không còn. Từ những yếu tố trên, VEPR khuyến nghị chính sách tiền tệ thận trọng.

Tin liên quan

Đọc tiếp