Phát triển điện khí LNG không thể thực hiện trong 'một sớm, một chiều'

NĂNG LƯỢNG Điện khí
20:42 - 24/01/2024
Kho cảng LNG Thị Vải. Nguồn: PV GAS.
Kho cảng LNG Thị Vải. Nguồn: PV GAS.
0:00 / 0:00
0:00
Theo đánh giá của các chuyên gia, việc đưa vào sử dụng và phát triển điện khí LNG tại Việt Nam đang còn nhiều cơ hội cho ngành năng lượng nước nhà, tuy nhiên thực tế còn nhiều khó khăn, trở ngại để đưa vấn đề này trở thành hiện thực.

Con đường đến chuyển đổi năng lượng không hề dễ dàng

Phát biểu tại "Hội thảo phát triển điện khí ở Việt Nam: Cơ hội và Thách thức” ngày 24/1, TS Mai Duy Thiện, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam cho biết, Quy hoạch điện VIII đặt mục tiêu chuyển đổi 18 GW điện than vào năm 2030 thay thế bằng 14 GW điện khí LNG và 12-15 GW nguồn năng lượng tái tạo.

Như vậy, đến năm 2030 sẽ phát triển 23.900 MW điện khí, tương đương tỷ trọng hơn 14,9% cơ cấu nguồn điện. Nhu cầu nhập khẩu LNG sẽ tăng lên, đạt khoảng 14-18 tỷ m3 vào năm 2030 và khoảng 13-16 tỷ m3 vào năm 2045.

Cũng theo ông Thiện, việc phát triển điện khí thiên nhiên hóa lỏng giúp tăng hiệu quả trong sản xuất điện, giảm sử dụng nhiệt điện than, giảm phát thải, bảo vệ môi trường hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Tuy nhiên, việc đưa vào sử dụng và phát triển LNG tại Việt Nam còn vướng rất nhiều "nút thắt".

"Việc chuyển dịch sang hướng phát triển năng lực xanh sạch, trong đó có phát triển điện khí thiên nhiên hóa lỏng không dễ dàng, không thể thực hiện một sớm, một chiều. Các dự án điện khí thiên nhiên hóa lỏng thường đòi hỏi các nguồn vốn lớn… Trong khi đó, khuôn khổ pháp lý hiện hành cho các dự án khí thiên nhiên hóa lỏng ở Việt Nam chưa được xây dựng hoàn chỉnh, thậm chí hiện chưa có bộ tiêu chuẩn kỹ thuật liên quan, cơ sở hạ tầng phục vụ cho khí thiên nhiên hóa lỏng nhập khẩu"

TS Mai Duy Thiện, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam

Đồng quan điểm, TS Vũ Đình Ánh, Chuyên gia kinh tế cũng chỉ ra những rào cản về cơ chế chính sách và giá trong phát triển điện khí thiên nhiên hóa lỏng.

Cụ thể, Việt Nam chưa có quy định hay tiêu chuẩn trong việc xây dựng kho cảng và nhập khẩu khí thiên nhiên hóa lỏng. Việc xây dựng nhà máy điện khí thiên nhiên hóa lỏng cũng đòi hỏi phải gần vị trí kho cảng nhập khí thiên nhiên hóa lỏng trong khi kho cảng nhập khí thiên nhiên hóa lỏng thì lại yêu cầu phải xây dựng gần cảng nước sâu để phục vụ cho tàu khí thiên nhiên hóa lỏng trọng tải lớn.

Quy hoạch điện VIII xác định đến năm 2030 sẽ xây mới 13 nhà máy điện khí LNG, có tổng công suất 22.400MW và đến năm 2035 xây thêm 2 nhà máy với công suất 3.000MW. Tính đến thời điểm hiện tại, có 13 dự án điện LNG được chấp thuận chủ trương đầu tư, trong đó có 5 dự án đang triển khai, 4 dự án đã tìm được nhà đầu tư, 4 dự án còn lại đang được các địa phương lựa chọn nhà đầu tư.

Tuy nhiên, để thực hiện 1 dự án điện khí LNG mất trên 8 năm. Như vậy, kế hoạch xây dựng 13 nhà máy điện khí LNG đến năm 2030 khó có thể hoàn thành.

"Con đường đến chuyển đổi năng lượng không hề dễ dàng do hai rào cản chính Việt Nam phải đối mặt là thiếu cơ sở hạ tầng và năng lực truyền tải cùng vấn đề kinh phí… Thứ hai là ở Việt Nam vẫn tồn tại rào cản về quy hoạch, Chính phủ cần sớm phê duyệt Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII để triển khai các khâu nguồn - lưới đồng bộ", TS Vũ Đình Ánh nêu.

Ở phía góc độ doanh nghiệp, Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam Nguyễn Quốc Thập cho rằng, hiện nay, thị trường tiêu thụ điện tăng chậm so với mục tiêu trong các quy hoạch điện. Hiện vẫn thiếu khung pháp lý để hoàn thành đàm phán và ký kết các thỏa thuận giữa các chủ thể trong chuỗi dự án điện khí thiên nhiên hóa lỏng.

"Một khó khăn khác nữa là vấn đề ban hành khung giá phát điện cho nhà máy phát điện khí khí thiên nhiên hóa lỏng vẫn còn đang nghiên cứu xem xét", ông Thập nói.

Toàn cảnh hội thảo.

Toàn cảnh hội thảo.

Gỡ nút thắt để phát triển

Để phát triển điện khí LNG, PGS TS Đinh Trọng Thịnh nhận định, thực hiện mục tiêu Quy hoạch điện VIII phải giải quyết một số vấn đề liên quan đến cơ sở hạ tầng và cơ chế chính sách.

Trước hết, cần quy hoạch đồng bộ, tập trung các dự án kho cảng nhập khẩu LNG để tiết kiệm nguồn lực xã hội, phát triển kinh tế và từ đó thúc đẩy thị trường LNG trong nước phát triển. Việc quy hoạch đồng bộ, ổn định lâu dài kho cảng, cơ sở tái khí hóa lỏng, hệ thống đường ống dẫn, cơ sở phát điện khí là cơ sở để các nhà đầu tư tính toán bỏ vốn đầu tư.

Tiếp đến, ông Thịnh cho rằng Chính phủ cần quan tâm sớm hoàn thiện hành lang pháp lý làm cơ sở để triển khai xây dựng, sử dụng hạ tầng liên quan đến khí LNG, bao gồm các quy định, quy chuẩn, tiêu chuẩn về kỹ thuật, thương mại, tài chính cần phải được hoàn thiện.

"Về mặt cơ chế chính sách cần phải rõ ràng, khả thi, thực tế, bảo đảm quản lý và quy định hiệu quả, xây dựng hệ thống phân phối và tiếp cận thị trường và thúc đẩy hợp tác quốc tế. Đây là cơ sở pháp lý, tạo môi trường pháp lý đồng bộ, thu hút đầu tư vào các dự án điện khí", PGS TS Đinh Trọng Thịnh nhấn mạnh.

Bên cạnh đó, vị chuyên gia này cũng đề xuất, cần phải đầu tư xây dựng kho cảng LNG mới, hiện đại, theo tiêu chuẩn quốc tế, tại các vị trí chiến lược, đủ khả năng tiếp nhận tàu chở LNG có kích thước lớn, vừa đảm bảo an toàn tuyệt đối cho an ninh kho cảng.

Đồng thời, xây dựng hệ thống tồn trữ và phân phối LNG, xây dựng các cơ sở tái khí hóa từ LNG tại các khu vực tiêu thụ. Các nhà đầu tư sẽ dựa trên các quy hoạch này để bỏ vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và các nhà máy sản xuất điện khí.

Bàn thêm về vấn đề này, Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam Nguyễn Quốc Thập đã đưa ra nhóm giải pháp gỡ “nút thắt “cho phát triển điện khí LNG. Đó là mở rộng và phát triển thị trường tiêu thụ điện khí LNG; sớm sửa đổi các bộ luật về điện lực, bảo vệ môi trường, các luật thuế, luật đấu thầu; Sớm cập nhật sửa đổi chính sách tài chính,...

Đồng thời, ông Thập cũng cho rằng cần thay đổi nhận thức và tư duy về điện LNG; có cách tiếp cận mới trong cả chuỗi từ đầu tư nhà máy, cung ứng nhiên liệu, hạ tầng kho, cảng, vận chuyển, đến hộ tiêu thụ điện và giá điện khí cần theo cơ chế thị trường.

"Tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế sẽ giúp có cơ hội để xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách năng lượng nói chung và điện khí LNG nói riêng. Cùng với đó, sẽ lựa chọn được các nhà đầu tư có tiềm lực về công nghệ, tài chính và kinh nghiệm triển khai; Xây dựng và hoàn thiện mô hình quản trị đầu tư xây dựng, vận hành, khai thác sử dụng hiệu quả tối ưu điện khí LNG"TS Nguyễn Quốc Thập, Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam

Tin liên quan

Đọc tiếp