Chiến lược tăng trưởng xanh: Không có nguồn lực đầu tư tư nhân thì khó làm

Kinh Tế Xanh Việt nAM
13:27 - 03/11/2021
Chiến lược tăng trưởng xanh: Không có nguồn lực đầu tư tư nhân thì khó làm
0:00 / 0:00
0:00
Giám đốc quốc gia GIZ tại Việt Nam, ông Jasper Abramowski cho rằng, nếu không có nguồn lực đầu tư tư nhân cho tăng trưởng xanh, sẽ rất khó đạt được các mục tiêu tham vọng đã đề ra.

Kể từ khi Chính phủ Việt Nam phê duyệt chiến lược tăng trưởng xanh lần đầu vào tháng 9/2012, nhiều chính sách, mục tiêu để thực hiện tăng trưởng xanh và phát triển bền vững đã được đưa ra và áp dụng vào thực tiễn.

Gần đây nhất, ngày 01/10/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ký phê duyệt chiến lược tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050. Trong đó bao gồm một số mục tiêu cụ thể như: giảm cường độ phát thải khí nhà kính trên đơn vị GDP khoảng 15% so với năm 2014, tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt đô thị được thu gom xử lý đảm bảo tiêu chuẩn, quy chuẩn theo quy định đạt 95% đến năm 2030, tỷ lệ nước thải đô thị được thu gom và xử lý đảm bảo tiêu chuẩn, quy chuẩn theo quy định trên 50% đối với đô thị loại II trở lên và 20% đối với các loại đô thị còn lại.

Chiến lược này cũng đặt ra những tỷ lệ tham vọng như nền kinh tế số đạt quy mô tương đương 30% GDP, tỷ lệ năng lượng tái tạo trong tổng nguồn cung năng lượng sơ cấp đạt 15-20%, duy trì độ che phủ rừng mỗi tỉnh ở mức 42%, ít nhất 30% diện tích đất nông nghiệp được tưới tiêu sẽ được áp dụng công nghệ tưới nước tiết kiệm và tiên tiến.

Nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) về “Nâng cao vai trò của đầu tư tư nhân đối với tăng trưởng xanh trong giai đoạn 2021-2030” được công bố tại Hội thảo về Nâng cao vai trò của đầu tư tư nhân đối với tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030 sáng 3/11, chỉ ra rằng doanh nghiệp vừa là chủ thể, vừa là đối tác trong vấn đề nóng lên toàn cầu và ô nhiễm môi trường, suy thoái tài nguyên thiên nhiên.

Nhưng "không có nguồn lực đầu tư tư nhân thì khó đạt"

Để đạt được các mục tiêu tham vọng mà chiến lược tăng trưởng xanh đề ra, theo ông Jasper Abramowski, Giám đốc quốc gia GIZ tại Việt Nam, Chính phủ cần ban hành các chính sách phù hợp để thu hút nhà đầu tư, đặc biệt nhà đầu tư tư nhân để tạo ra một kênh thực hiện đầu tư kinh doanh hướng tới tăng trưởng xanh.

“Mặc dù Chính phủ Việt Nam trong thời gian qua đã có những nỗ lực to lớn nhưng quá trình thúc đẩy tăng trưởng xanh vẫn chưa đạt kỳ vọng mong muốn, đặc biệt là việc huy động nguồn lực đầu tư tư nhân cho tăng trưởng xanh”, ông Jasper Abramowski nhận định: Nếu không có nguồn lực đầu tư tư nhân cho tăng trưởng xanh thì rất khó đạt được các mục tiêu tham vọng đã đề ra và việc không đủ nguồn lực tài chính sẽ là trở ngại nghiêm trọng.

Nghiên cứu của viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) về “Nâng cao vai trò của đầu tư tư nhân đối với tăng trưởng xanh trong giai đoạn 2021-2030” được công bố tại Hội thảo về Nâng cao vai trò của đầu tư tư nhân đối với tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030 sáng 3/11, chỉ ra rằng doanh nghiệp vừa là chủ thể, vừa là đối tác trong vấn đề nóng lên toàn cầu và ô nhiễm môi trường, suy thoái tài nguyên thiên nhiên.

Ảnh tác giả

“Định hướng chung trong là cụ thể hóa các kế hoạch hành động của ngành, kế hoạch hành động quốc gia, bao gồm các bước thực hiện chính sách cụ thể để thúc đẩy tăng trưởng xanh. Tuy nhiên, không có đủ nguồn lực tài chính sẽ là trở ngại nghiêm trọng”

Ông Jasper Abramowski, Giám đốc quốc gia GIZ tại Việt Nam.

Do đó, thu hút các nhà đầu tư tư nhân tham gia vào các hoạt động hướng đến mục tiêu tăng trưởng xanh sẽ góp phần thực hiện nhiệm vụ kép, vừa thúc đẩy vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế theo mục tiêu của Nghị quyết 10-NQ/TW, vừa thực hiện Chiến lược quốc gia về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chiến lược tăng trưởng xanh và các cam kết giảm phát thải khí nhà kính của Việt Nam.

Doanh nghiệp ngoài Nhà nước ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong lĩnh vực tăng trưởng xanh

Theo nghiên cứu của CIEM, các hoạt động hướng tới tăng trưởng xanh của doanh nghiệp thể hiện chủ yếu ở hai khía cạnh: đầu tư kinh doanh (tập trung vào năng lượng sạch, công nghệ bảo vệ môi trường) và thực hiện trách nhiệm xã hội (tuân thủ đúng Hiến pháp, pháp luật về môi trường, đầu tư hệ thống xử lý đảm bảo chuẩn đầu ra nước và khí thải, bồi thường thiệt hại hay đánh giá tác động môi trường từ hoạt động sản xuất kinh doanh…).

Sự tuân thủ phát luật về bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp đang tốt lên, thể hiện qua tỷ lệ phát hiện và xử lý các sai phạm có xu hướng giảm trong giai đoạn 2015-2019

Sự tuân thủ phát luật về bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp đang tốt lên, thể hiện qua tỷ lệ phát hiện và xử lý các sai phạm có xu hướng giảm trong giai đoạn 2015-2019

Số lượng chứng chỉ ISO 14001 tăng đều trong các năm, đặc biệt là những năm gần đây

Số lượng chứng chỉ ISO 14001 tăng đều trong các năm, đặc biệt là những năm gần đây

Trong giai đoạn 2010-2019, số lượng tham gia đầu tư vào lĩnh vực năng lượng và môi trường tăng mạnh, chủ yếu là doanh nghiệp ngoài Nhà nước (DNNNN). Tổng vốn đầu tư của DNNNN tăng đều. Đặc biệt, đầu tư vào điện mặt trời và điện gió có sự tăng trưởng mạnh mẽ vào năm 2019 nhờ chính sách giá FIT.

Số lượng tham gia đầu tư vào lĩnh vực năng lượng và môi trường tăng mạnh, chủ yếu là DNNNN

Số lượng tham gia đầu tư vào lĩnh vực năng lượng và môi trường tăng mạnh, chủ yếu là DNNNN

Chẳng hạn, trong cơ cấu doanh nghiệp tham gia cung cấp nước sạch, thoát nước và xử lý nước thải ở Việt Nam vào năm 2010: DNNN chiếm 21,9% và DNNNN chiếm 78,1%. Đến năm 2019, tổng số doanh nghiệp tham gia vào ngành đã tăng gấp 3 lần so với năm 2010, trung bình tăng 12,9%/năm, trong đó DNNNN chiếm phần lớn với 94,7% và DNNN giảm mạnh chỉ còn 5,3%.

DNNNN chiếm hơn 94% trong cơ cấu doanh nghiệp tham gia cung cấp nước sạch, thoát nước và xử lý nước thải ở Việt Nam vào năm 2019

DNNNN chiếm hơn 94% trong cơ cấu doanh nghiệp tham gia cung cấp nước sạch, thoát nước và xử lý nước thải ở Việt Nam vào năm 2019

Hay trong cơ cấu doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực rác thải, DNNNN không những tăng về số lượng mà còn cả về thị phần. Năm 2010, DNNN chiếm 63,8% và DNNN là 36,2% thị phần ngành, đến năm 2019, tỷ trọng DNNNN tăng lên 87,2%, DNNN giảm còn 12,8%.

DNNNN chiếm 87,2% trong cơ cấu doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực rác thải tại Việt Nam năm 2019

DNNNN chiếm 87,2% trong cơ cấu doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực rác thải tại Việt Nam năm 2019

Tuy nhiên, có thực tế DNNNN mặc dù đóng vai trò ngày càng tăng trong lĩnh vực tăng trưởng xanh, lớn về số lượng nhưng quy mô còn rất khiêm tốn.

Số lượng DNNNN trong lĩnh vực tăng trưởng xanh ngày càng tăng nhưng quy mô vốn đầu tư còn khiêm tốn so với DNNN

Số lượng DNNNN trong lĩnh vực tăng trưởng xanh ngày càng tăng nhưng quy mô vốn đầu tư còn khiêm tốn so với DNNN

Thu hút đầu tư tư nhân cho tăng trưởng xanh: Cần phải làm gì?

Để thu hút mọi nguồn lực đầu tư tư nhân tham gia đầu tư cho tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030 nói chung, lĩnh vực năng lượng tái tạo, dịch vụ môi trường nói riêng, các tác giả nghiên cứu bao gồm TS.Hồ Công Hòa, ThS.Lưu Đức Khải, ThS.Nguyễn Thị Huy và TS.Đinh Khánh Lê đề xuất cần thực hiện đồng bộ các giải pháp tạo dựng môi trường đầu tư hấp dẫn, nâng cao chất lượng khung pháp lý và năng lực thực hiện hiệu quả trong thực hiện chính sách.

Biện pháp cụ thể trước mắt là nâng cao trách nhiệm “người gây ô nhiễm phải trả tiền”, ví dụ nâng mức phí bảo vệ môi trường nước thải hiện nay (10% giá nước sạch), đẩy nhanh thu phí rác thải sinh hoạt theo khối lượng tạo sự công bằng theo đúng tinh thần của Luật Bảo vệ môi trường.

Về lâu dài, cần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực năng lượng và môi trường, từng bước tạo dựng thị trường năng lượng đầy đủ theo cơ chế thị trường, đảm bảo thông thoáng, minh bạch, công bằng giữa mọi thành phần kinh tế. Áp dụng các công cụ kinh tế như phát triển ngân hàng xanh, tín dụng xanh giúp các doanh nghiệp tiếp cận được các nguồn tài chính xanh, thúc đẩy quá trình triển khai chính sách mua sắm công xanh, nghiên cứu khả năng áp dụng thuế các-bon theo lộ trình phù hợp nhằm định hướng sản xuất kinh doanh và tiêu dùng của xã hội trong tương lai.

Biện pháp cụ thể trước mắt là nâng cao trách nhiệm “người gây ô nhiễm phải trả tiền”, ví dụ nâng mức phí bảo vệ môi trường nước thải hiện nay (10% giá nước sạch), đẩy nhanh thu phí rác thải sinh hoạt theo khối lượng tạo sự công bằng theo đúng tinh thần của Luật Bảo vệ môi trường.

Chính phủ cũng cần xây dựng một hành lang pháp lý, cơ chế chính sách vừa bắt buộc, vừa khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cho tăng trưởng xanh, thực thi trách nhiệm xã hội đối với môi trường, tăng trưởng xanh, phát triển bền vững.

Song song, cần nghiên cứu ban hành các cơ chế thí điểm triển khai các dự án PPP (như thu gom và xử lý chất thải, cấp nước sạch,...) có quy mô nhỏ hơn 200 tỷ đồng ở các vùng nông thôn, đô thị nhỏ làm cơ sở cho việc điều chỉnh bổ sung Luật PPP.

Các tác giả của bản nghiên cứu cũng khuyến cáo cần đẩy nhanh chương trình cải cách hành chính, đổi mới hình thức lập kế hoạch theo kế hoạch trung và dài hạn, đẩy nhanh chương trình cổ phần hóa DNNN, sớm ban hành các hướng dẫn về cơ chế mua bán nợ, đặc biệt là hướng dẫn cụ thể về định giá, đấu thầu, đấu giá các khoản nợ để bán, và mở rộng thị trường mua bán nợ cho các công ty ngoài nhà nước.

Đẩy mạnh công tác đào tạo chuyên môn, đặc biệt là kỹ năng thẩm định, đàm phán hợp đồng dự án PPP cho các bộ ngành và địa phương. Xây dựng các chương trình truyền thông nâng cao nhận thức về PPP cho toàn xã hội về vai trò của người dân trong việc chia sẻ gánh nặng tài chính cho dịch vụ chất thải với nhà nước. Công khai các quy hoạch năng lượng, ngành nước thải và chất thải rắn, bao gồm các dự báo lượng thải, hệ thống đấu nối, và các vấn đề liên quan khác.

Tin liên quan

Đọc tiếp