Kinh tế Việt Nam có độ mở lớn nhưng lại tập trung vào một số ít thị trường

KINH TẾ Việt nAM
16:18 - 05/06/2022
Trưởng ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh phát biểu khai mạc Phiên toàn thể toạ đàm cấp cao. Ảnh: VGP
Trưởng ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh phát biểu khai mạc Phiên toàn thể toạ đàm cấp cao. Ảnh: VGP
0:00 / 0:00
0:00
Đó là nhận định của Trưởng ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh tại Phiên toàn thể tọa đàm cấp cao, Diễn đàn Kinh tế Việt Nam lần thứ 4 với chủ đề “Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập kinh tế sâu rộng trong tình hình mới” chiều 5/6.

Phiên toàn thể tọa đàm cấp cao có sự tham dự của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa; lãnh đạo các ban, bộ, ngành trung ương; lãnh đạo các địa phương; đại sứ, lãnh đạo các tổ chức quốc tế tại Việt Nam; các doanh nghiệp trong và ngoài nước; các chuyên gia kinh tế.

Năng lực tự chủ, sức chống chịu còn yếu

Phát biểu khai mạc phiên tổng thể, ông Trần Tuấn Anh cho biết, sau 35 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu phát triển ấn tượng như quy mô kinh tế tăng gấp 12 lần, thu nhập bình quân đầu người tăng 8,3 lần, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng 29,5 lần, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng 22 lần, tỷ lệ hộ nghèo cả nước từ 58% năm 1993 xuống chỉ còn 2,23% năm 2021 tính theo chuẩn mới…

Cho đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc, trong đó có quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện với 30 nước. Đảng ta đã thiết lập quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia. Quốc hội Việt Nam có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 nước.

Việt Nam có quan hệ thương mại với trên 220 đối tác, 71 nước đã công nhận quy chế kinh tế thị trường đối với Việt Nam. Việt Nam cũng đã ký kết và tham gia 15 hiệp định hiệp định thương mại tự do, trong đó có nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu nổi bật, năng lực tự chủ, khả năng thích ứng và sức chống chịu của nền kinh tế trước các cú sốc hoặc tác động bên ngoài còn yếu. Kết quả phân tích cấu trúc liên ngành cho thấy, nền kinh tế Việt Nam cơ bản là một nền kinh tế thâm dụng vốn và gia công, lắp ráp là chủ yếu; mặc dù đóng góp vào tăng trưởng tăng từ 34,3% giai đoạn 2011 - 2015 lên 45,9% giai đoạn 2016 - 2020 nhưng trong cơ cấu của TFP, vai trò của khoa học công nghệ chỉ đóng góp ở mức khiêm tốn 28,44%.

Trong lĩnh vực công nghiệp, Việt Nam nhập khẩu hầu hết công nghệ, máy móc thiết bị, phụ tùng, nguyên liệu chính cho sản xuất; nhập siêu tới 9,3 triệu tấn thép cuộn cán nóng/năm, nhập khẩu 85,4% xơ sợi (60% từ Trung Quốc, 13,7% từ Hàn Quốc và 11,7% từ Đài Loan), ngành da giầy nhập 40 - 45% nguyên liệu từ nước ngoài…

Trong lĩnh vực nông nghiệp cũng phải nhập khẩu trên 70% máy móc, thiết bị phục vụ; giống một số loại cây trồng, vật nuôi còn phụ thuộc vào nhập khẩu, điển hình như như 80% giống rau và 60% giống ngô.

Hiện trong cơ cấu kinh tế, khu vực FDI đóng góp tới 20,13% GDP, chiếm 72% tổng giá trị xuất khẩu, khoảng 50% sản lượng công nghiệp; nếu đánh giá căn cứ vào chỉ số giá trị gia tăng, doanh thu và việc làm thì các doanh nghiệp FDI chi phối 12 trên 24 phân ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, đóng vai trò chi phối ở 4 trong 5 ngành công nghiệp xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam là dệt may, da giày, điện tử và sản xuất đồ đồ gỗ…

Trong khi đó, phần lớn doanh nghiệp FDI là từ các nước mới nổi, nhất là từ Trung Quốc; hoạt động chủ yếu nhập khẩu để phục vụ sản xuất, từ đó hiệu ứng lan tỏa đến nền kinh tế trong nước còn thấp; số hợp đồng chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp FDI rất khiêm tốn, chỉ khoảng 1.000 hợp đồng trong tổng số gần 27.500 dự án đầu tư nước ngoài...

Những năm qua, xếp hạng chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam có sự cải thiện nhưng các yếu tố nền tảng còn ở mức thấp. Tổng chi cho nghiên cứu và phát triển của Việt Nam bao gồm cả Nhà nước và tư nhân chỉ đạt 0,53% GDP năm 2019, thấp hơn nhiều so với bình quân thế giới ở mức 1,7% và một số nước như Thái Lan 0,8%, Malaysia 1,4%, Trung Quốc 2,1%.

Cần đẩy nhanh xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế

Trưởng Ban kinh tế Trung ương nhận định, nền kinh tế Việt Nam hội nhập cao, có độ mở lớn nhưng lại tập trung vào một số ít thị trường và cơ cấu thiếu bền vững dẫn đến bị phụ thuộc.

Để đạt được mục tiêu đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao; ông Trần Tuấn Anh cho rằng nhiệm vụ cấp thiết có tính then chốt, nhất quán và lâu dài là phải xây dựng nền kinh tế phát triển năng động, nhanh và bền vững, độc lập, tự chủ trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với nâng cao hiệu quả trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế.

Trong 2 năm qua, nền kinh tế Việt Nam phải đối diện với hàng loạt những khó khăn chưa có tiền lệ do đại dịch Covid-19, nhưng đang trở lại quỹ đạo tăng trưởng nhanh như trước đại dịch. Kinh tế quý I/2022 đã quay trở lại đà tăng trưởng cao, đạt trên 5%. Các lĩnh vực xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng đều tăng mạnh, niềm tin của người các nhà đầu tư tăng mạnh.

Tổ chức xếp hạng tín nhiệm S&P vừa nâng hạng tín nhiệm dài hạn của Việt Nam từ BB lên BB+, ghi nhận nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phục hồi vững chắc và dự báo tăng trưởng GDP năm 2022 của Việt Nam khoảng 6,9% với xu hướng dài hạn là 6,5% - 7% từ năm 2023.

Tuy nhiên, tác động của đại dịch vừa qua cùng với sự xuất hiện nhiều biến cố mới thuộc về bối cảnh quốc tế, điển hình là xung đột tại Ukraine đã và đang đặt ra yêu cầu Việt Nam cần đẩy nhanh hơn, quyết liệt hơn, thực chất và hiệu quả hơn việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả.

Tin liên quan

Đọc tiếp