'Cuộc chiến' giữa vốn và lao động thời kỳ hậu phong tỏa

KINH TẾ THẾ GIỚI
17:46 - 17/02/2022
Người lao động và doanh nghiệp trong cuộc chiến tăng giá - tăng lương. Ảnh: Getty Images
Người lao động và doanh nghiệp trong cuộc chiến tăng giá - tăng lương. Ảnh: Getty Images
0:00 / 0:00
0:00
Trong bối cảnh hậu phong tỏa vì Covid-19, lạm phát tại nhiều nền kinh tế dâng cao kéo theo đà tăng của lương và giá cả. Tuy nhiên, khi đặt lên bàn cân để so sánh, cả các doanh nghiệp tăng giá và người lao động được tăng lương chưa chắc được hưởng lợi.

Tại một số nền kinh tế khối OEDC, sau khi sự bất mãn đang tăng lên sau khi trải qua thời kỳ phong tỏa. Các hộ gia đình nói rằng các công ty đang tranh thủ tăng giá, góp phần khiến tỷ lệ lạm phát trung bình ở các nước giàu lên 6,6% trong năm 2021, cao hơn so với cùng kỳ các năm trước đó.

Các công ty thì gạt những cáo buộc như vậy sang một bên và tin rằng, họ mới thực sự là bên bị thiệt. Họ phàn nàn rằng nhân viên dù làm việc chăm chỉ hơn, nhưng cũng đang đòi hỏi mức lương ngày càng cao hơn. Đầu tháng này, Andrew Bailey, Thống đốc Ngân hàng Trung ương Anh, đã gây tranh cãi bằng cách gợi ý rằng người lao động nên tiết chế yêu cầu về lương của họ - ngay cả khi ông đã thất bại trong việc yêu cầu các công ty không tăng giá.

Bên nào có ưu thế hơn trong nền kinh tế hậu phong tỏa?

Một “trận chiến của các khoản tăng giá”, giữa lương cao hơn và giá hàng hóa cao hơn, đang diễn ra gay gắt. Nói một cách tổng thể, sản lượng kinh tế phải chuyển đến chủ sở hữu vốn, dưới dạng lợi nhuận, cổ tức và tiền thuê; hoặc chuyển đến lao động, dưới dạng tiền lương, tiền công và quyền lợi.

Các nhà kinh tế gọi đây là tỷ trọng "vốn" hoặc "lao động" trong GDP. Trong đó, "vốn" đại diện cho tiền của các doanh nghiệp, các công ty; còn "lao động" là mức thu nhập của người lao động. Vậy bên nào có ưu thế trong nền kinh tế hậu phong tỏa?

The Economist đã tổng hợp một loạt các chỉ số để trả lời câu hỏi này.

Đầu tiên, họ tính toán một thước đo tần suất cao về tỷ trọng vốn - lao động trên 30 quốc gia chủ yếu là giàu có. Năm 2020, tổng tỷ trọng lao động của nhóm này đã tăng vọt. Điều này phần lớn là do các công ty tiếp tục trả lương cho người dân – phần lớn là nhờ các chương trình kích thích của chính phủ - ngay cả khi GDP giảm. Trong giai đoạn này, lợi thế nghiêng về bên “lao động”.

Tuy nhiên, gần đây hơn, cuộc chiến dường như đã chuyển sang hướng có lợi cho bên "vốn". Kể từ khi đạt đỉnh vào năm 2020, tỷ trọng "lao động" của nhóm các nước giàu đã giảm 2,3 điểm phần trăm. Tuy nhiên, dữ liệu chỉ tính đến tháng 9/2021 và hầu hết nhà kinh tế lập luận rằng tỷ lệ chia sẻ của "lao động" không phải là thước đo hoàn hảo về công bằng kinh tế, vì nó rất khó đo lường. Các bằng chứng kể từ đó cho thấy các quốc gia rơi vào một trong ba nhóm, tùy thuộc vào “trận chiến” của hai bên.

Tăng trưởng tiền lương cơ bản tại Anh đạt 5%, tốc độ nhanh bất thường. Ảnh: Getty Images

Tăng trưởng tiền lương cơ bản tại Anh đạt 5%, tốc độ nhanh bất thường. Ảnh: Getty Images

Nhóm đầu tiên là Anh. Nước này có tăng trưởng tiền lương cơ bản nằm trong mức 5% một năm, nhanh bất thường theo tiêu chuẩn của các nước giàu trên thế giới. Tuy nhiên, các tập đoàn dường như không có nhiều quyền định giá. Điều này có nghĩa là họ đang phải vật lộn để bù đắp các khoản chi phí tăng cao hơn bằng hình thức tăng giá cao hơn.

Theo đó, ước tính lợi nhuận danh nghĩa tính bằng bảng Anh trên mỗi đơn vị hàng hóa và dịch vụ bán ra chỉ cao bằng giai đoạn đầu năm 2019, ngay cả khi chi phí lao động đang tăng khoảng 3% mỗi năm. "Lao động" dường như đang chiến thắng so với "vốn".

Nhóm thứ hai bao gồm hầu hết quốc gia giàu có khác bên ngoài châu Mỹ. Ở đó, cả "lao động" và "vốn" hầu như không thể chiến thắng. Sau khi khắc phục những tác động liên quan đến đại dịch, tăng trưởng tiền lương của Nhật Bản đang chậm lại xuống dưới 1% một năm, theo dữ liệu từ Goldman Sachs.

Ở Italy và Tây Ban Nha, tốc độ tăng tiền lương đang giảm dần, trong khi ở Australia, Pháp và Đức, mức tăng lương vẫn thấp hơn nhiều so với trước đại dịch. Vì vậy, người lao động ở những nơi này không thực sự là nguyên nhân gây ra lạm phát.

Nhưng doanh nghiệp cũng không được hưởng lợi. Ở châu Âu, mặc dù tỷ suất lợi nhuận trước thuế đã tăng trong những tháng gần đây nhưng vẫn thấp hơn mức trước đại dịch. Tại Nhật Bản, lợi nhuận trước thuế định kỳ của các công ty quy mô vừa và lớn đã trở lại mức trước đại dịch. Tuy nhiên, lợi nhuận của các công ty nhỏ hơn vẫn ở mức thấp hơn.

Người Mỹ vật lộn với lạm phát và giá cả các mặt hàng tăng nhanh. Ảnh: AP

Người Mỹ vật lộn với lạm phát và giá cả các mặt hàng tăng nhanh. Ảnh: AP

Nhóm thứ ba là Mỹ. Ở đây tăng trưởng tiền lương rất nhanh, khoảng 5% một năm. Tuy nhiên, những gì thể hiện trong kết quả tài chính gần đây nhất của các công ty niêm yết lớn cho thấy, họ đã giữ ổn định tỷ suất lợi nhuận còn tốt hơn so với dự kiến của các nhà phân tích. Một loạt các khoản thanh toán kích thích kinh tế thời gian qua giúp các hộ gia đình Mỹ hấp thụ mức giá cao hơn mà các công ty này áp đặt. Vào đầu tháng 2, Amazon cho biết họ sẽ tăng giá gói thành viên Prime lên 17% ở Mỹ (ngay cả khi họ không thể làm được việc này ở các khu vực khác trên thế giới).

Một số công ty đang tăng tỷ suất lợi nhuận của họ mặc dù chi phí tăng cao. Tyson, một nhà sản xuất thịt của Mỹ, báo cáo rằng chi phí đầu vào của họ đã tăng 18% trong quý gần đây nhất so với một năm trước đó. Trước sức ép điều chỉnh giá, họ phải tăng 19,6% trong giá bán trung bình và tăng 40% trong lợi nhuận kinh doanh. Doanh nghiệp này cho biết giá thịt leo thang không làm giảm nhu cầu.

"Thỏa hiệp cuối cùng" - không ai có thể hài lòng

Dario Perkins, Giám đốc công ty tài chính TS Lombard, đã phân tích mức tăng giá của Mỹ kể từ khi bắt đầu đại dịch thành chi phí lao động và lợi nhuận của các công ty.

Sau đó, ông nhận thấy tiền lương đang tăng, nhưng việc tăng giá cũng là nguyên nhân gây ra hơn 70% lạm phát kể từ cuối năm 2019. Trong một báo cáo gần đây, các nhà phân tích tại Bank of America cho rằng sức mạnh định giá lớn là minh chứng cho thấy cổ phiếu của Mỹ có tỷ lệ thu nhập trên giá cao hơn so với cổ phiếu của châu Âu.

Tuy nhiên, câu chuyện vẫn chưa kết thúc. Một số nhà kinh tế tự hỏi liệu người lao động có đòi hỏi mức lương cao hơn nữa để bù đắp cho giá cả hàng hóa cao hơn hay không. Có một số bằng chứng về điều này ở Mỹ và Anh, nơi tốc độ tăng trưởng tiền lương đang tăng nhanh.

Kỳ vọng của các doanh nghiệp với việc giải quyết tiền lương trong tương lai vẫn khá thận trọng, mặc dù điều này có thể sớm thay đổi. Nếu tiền lương bắt đầu tăng nhanh hơn, chu kỳ tăng giá và bù đắp nhu cầu tiền lương có thể bắt đầu lại lần nữa. Chẳng bao lâu nữa, nền kinh tế hậu phong tỏa có thể giống như một "thỏa hiệp cuối cùng" - nơi mà không ai có thể hài lòng.

Tin liên quan

Đọc tiếp