Ứng dụng khí LNG làm nền tảng cho chuyển đổi xanh ngành công nghiệp

LNG Việt nAM
09:07 - 31/01/2024
Toàn cảnh hội thảo. Ảnh: Thu Thảo.
Toàn cảnh hội thảo. Ảnh: Thu Thảo.
0:00 / 0:00
0:00
Trong công nghiệp, LNG là một loại nguyên liệu đốt sạch, sản sinh khí thải ít hơn đáng kể so với các loại nhiên liệu hóa thạch truyền thống. Do đó, hiện nhiều ngành công nghiệp đang chuyển sang sử dụng LNG như một giải pháp chính để giảm phát thải.

Nhiều ngành công nghiệp đang chuyển sang sử dụng LNG

Tại Hội thảo "Chuyển đổi xanh ngành công nghiệp: Ứng dụng nhiên liệu LNG nền tảng cho lộ trình giảm phát thải khí nhà kính” do Báo Xây dựng tổ chức vào chiều 30/1, TS Nguyễn Hữu Lương, chuyên gia cao cấp, Viện Dầu khí Việt Nam cho biết, một trong những giải pháp chuyển đổi năng lượng xanh tiết kiệm, hiệu quả hiện nay đó là sử dụng khí LNG.

Theo ông Lương, LNG là khí thiên nhiên hóa lỏng được chuyển từ dạng khí sang dạng lỏng để thuận tiện cho quá trình vận chuyển. Hiện tại, khí LNG được ứng dụng bởi 5 ngành chính, đó là dân dụng và thương mại như làm nhiên liệu để nấu ăn, sưởi ấm hộ gia đình và tòa nhà.

Trong giao thông vận tải sẽ làm nhiên liệu để thay thế cho DO và FO. Trong Công nghiệp làm nhiên liệu để cung cấp năng lượng cho sản xuất thép, xi măng, gốm...

Trong hóa chất/hóa dầu: sản xuất phân bón, các loại nhựa, xơ, sợi… Điện khí/LNG sạch hơn 1/2 phát thải so với điện than truyền thống, là bước chuyển tiếp từ than sang năng lượng tái tạo.

Trong công nghiệp, LNG là một loại nguyên liệu đốt sạch, sản sinh lượng khí thải CO2 ít hơn đáng kể so với các loại nhiên liệu hóa thạch truyền thống. LNG cũng hiệu quả hơn các dạng khí tự nhiên khác vì nó tiêu tốn ít năng lượng hơn để làm lỏng và vận chuyển trên khoảng cách dài.

“Với nhu cầu ngày càng tăng về năng lượng bền vững, nhiều doanh nghiệp trong nhóm ngành công nghiệp đang chuyển sang sử dụng LNG như một cách để giảm lượng khí thải carbon và tuân thủ các quy định về giảm thiểu tác động môi trường của họ”

TS Nguyễn Hữu Lương, chuyên gia cao cấp, Viện Dầu khí Việt Nam

Trong xây dựng, LNG là một nguồn nhiên liệu sạch hơn nhiều so với dầu diesel truyền thống, có nghĩa là ít khí thải độc hại hơn tại các công trường xây dựng.

Trong logistics vận tải, LNG là một nguồn nhiên liệu sạch hơn cho tàu vận tải, sản xuất ra lượng lưu huỳnh và chất thải rắn đáng kể ít hơn so với dầu DO truyền thống. Các tàu chạy bằng LNG cũng có thể yên tĩnh và tiết kiệm nhiên liệu hơn so với các tàu truyền thống.

Nhận định về nhu cầu thị trường khí Việt Nam, TS Nguyễn Hữu Lương cho rằng, giai đoạn 2030 – 2050 sẽ bao gồm khí tự nhiên nội địa và khí LNG nhập khẩu. Trong đó, cơ cấu nguồn cung khí tại Việt Nam từ nguồn mỏ trong nước sẽ chiếm từ 40% – 45%, nhu cầu khí nhập khẩu LNG ở Việt Nam sẽ giao động từ 55% - 60%.

Nhu cầu sử dụng LNG sẽ tập trung tại 4 lĩnh vực: sản xuất điện; công nghiệp; sản xuất phân bón và hóa dầu.

Khó khăn lớn nhất là thiếu cơ chế, chính sách

Bàn về những khó khăn, thách thức trong phát triển khí LNG tại Việt Nam, TS Nguyễn Quốc Thập, Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam chỉ ra, thị trường tiêu thụ điện đang tăng chậm so với mục tiêu trong các quy hoạch điện.

Bỏ bảo lãnh Chính phủ, nhưng các doanh nghiệp lại chưa đủ hành lang pháp lý để bảo lãnh thay thế, chính vì vậy làm khó khăn hơn cho hợp đồng mua bán điện.

Vấn đề bảo lãnh/bảo đảm chuyển đổi ngoại tệ nội tệ và nghĩa vụ thanh toán quốc tế về nhập khẩu LNG: khi mua LNG thì thường phải trả bằng ngoại tệ, nhưng thu bằng tiền đồng. Nhà đầu tư phải chuyển đổi tiền nhưng nhà đầu tư được yêu cầu phải bảo lãnh về khối lượng và tỷ giá

Vấn đề ban hành khung giá phát điện cho nhà máy phát điện khí LNG vẫn còn đang nghiên cứu xem xét. Bộ Công Thương cho đến nay vẫn chưa thực hiện được do khó khăn về Luật Điện lực chưa cho phép thực hiện. Trong khi đó, Luật Giá đã cho phép tính đúng, tính đủ về cơ cấu giá thành.

Vấn đề về cam kết tổng sản lượng điện mua hàng năm (Qc) và cam kết bao tiêu sản lượng khí LNG hàng năm cũng đang là một thách thức. Bởi, theo ông Thập, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) được mua điện của các nhà máy và bán ra theo sự điều tiết, đầu vào lại phải đi đàm phán với các nhà máy. Do đó, với cơ chế tài chính không đủ để thực hiện cam kết.

Ngoài ra, vấn đề cam kết về đường dây truyền tải và đầu nối của dự án cũng là vấn đề gặp rất nhiều khó khăn. Từ đó dẫn tới nguy cơ mất kiểm soát tiến độ của chuỗi các dự án điện khí LNG.

Tuy nhiên, theo TS Nguyễn Quốc Thập, khó khăn và thách thức lớn nhất khi phát triển điện khí LNG theo quy hoạch điện VIII hiện nay là thiếu cơ chế, chính sách cho mọi hoạt động của chuỗi khí điện LNG và tiêu thụ điện LNG.

Bên cạnh đó, hành lang pháp lý cho hoạt động độc lập và tự chủ của Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN)/EVN còn thiếu khi Chính phủ không còn bảo lãnh cho tất cả các loại hình dự án. Cách tiếp cận và xử lý của cơ quan quản lý các cấp như hiện tại sẽ làm giảm hiệu quả và nhiệt huyết của các nhà đầu tư và đối tác trong chuỗi dự án.

Bàn về giải pháp cho các vấn đề này, trao đổi với Mekong ASEAN, TS Nguyễn Quốc Thập cho rằng, quan trọng nhất là cần phải có một nghị quyết chuyên đề của Quốc hội chấp thuận những giải pháp tháo gỡ, để các đơn vị có cơ sở triển khai các dự án điện khí LNG đảm bảo theo các quy hoạch ngành năng lượng và Quy hoạch điện VIII.

"Nếu không, cứ nói mãi về tháo gỡ cơ chế chính sách, hoàn thiện khung pháp lý thì bao giờ mới tháo gỡ được, bao giờ mới hoàn thiện được? Trong khi lộ trình sửa đổi luật của Quốc hội là một quá trình dài, có những vấn đề đặt ra ở kỳ họp này nhưng kỳ họp sau mới hoàn thành được, chứ không phải ngày một ngày hai. Do đó, việc Quốc hội có nghị quyết chấp thuận các nguyên tắc triển khai điện khí LNG là rất quan trọng" TS Nguyễn Quốc Thập, Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam

Bên cạnh đó, TS Nguyễn Quốc Thập cũng đưa ra các nhóm giải pháp như: thay đổi nhận thức và tư duy về điện khí LNG là không chỉ có kho cảng LNG và nhà máy điện, điện khí LNG cần được hấp thụ bởi các khu/cụm công nghiệp và các nhà máy.

Điện khí LNG cần được vận hành theo thông lệ quốc tế đó là thị trường và thị trường dài hạn; giá điện và giá khí LNG cần phải neo theo giá dầu thô trong công thức giá; các cam kết dài hạn và thị trường cũng là các điều kiện cần và đủ để hiện thực hóa các dự án khí điện LNG theo quy hoạch.

Mở rộng và phát triển thị trường tiêu thụ điện theo sát với mục tiêu trong các quy hoạch điện: quy hoạch, xây dựng tập trung và đồng bộ cụm kho cảng LNG, nhà máy điện và các khu công nghiệp/nhà máy có quy mô sử dụng điện đủ lớn;

Thu hút và khuyến khích các nhà đầu tư các loại hình khu công nghiệp/nhà máy cam kết tiêu thụ điện dài hạn cùng với chuỗi nhà máy điện và kho cảng LNG; kích cầu điện, kích thích sản xuất, kích thích tiêu dùng; tháo gỡ nút thắt liên quan đến cam kết huy động tổng sản lượng điện (Qc).

Về vấn đề cơ sở pháp lý, ông Thập cho rằng cần sửa đổi Luật Điện lực, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Thuế, Luật Đầu tư và các Nghị định hướng dẫn về: Quy hoạch, xây dựng tập trung và đồng bộ cụm kho cảng LNG, nhà máy điện và các khu công nghiệp/nhà máy có quy mô sử dụng điện đủ lớn.

Cập nhật và sửa đổi điều lệ và quy chế tài chính của các tập đoàn kinh tế Nhà nước, đảm bảo các doanh nghiệp có đầy đủ cơ sở pháp lý để cam kết và thế chấp với các chủ thể trong hợp đồng mua bán LNG và mua bán điện; các tập đoàn này được quyền cam kết và thế chấp tài sản hay dòng tiền của tập đoàn trong các giao dịch pháp luật – kinh tế - thương mại. Khi đó, nút thắt về bảo lãnh Chính phủ được tháo gỡ.

Đối với nút thắt cam kết bảo lãnh/bảo đảm chuyển đổi ngoại tệ/nội tệ, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cần cam kết đảm bảo về khối lượng cho nhà đầu tư, tỷ giá sẽ do thị trường quyết định. Rủi ro khi đó sẽ do thị trường quyết định.

Ngoài ra, ông Thập cho rằng cần tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế để có cơ hội xây dựng cơ chế chính sách điện khí LNG nói riêng và năng lượng nói chung; có cơ hội để xây dựng mô hình quản trị đầu tư xây dựng, vận hành, khai thác sử dụng hiệu quả và tối ưu điện khí LNG; lựa chọn được các nhà đầu tư có tiềm lực về công nghiệp, tài chính và kinh nghiệm triển khai.

"Hợp tác quốc tế là một trong các điều kiện cần và đủ để hiện thực hóa các dự án khí điện LNG theo Quy hoạch Điện VIII và quy hoạch năng lượng quốc gia", TS Nguyễn Quốc Thập cho hay.

Tin liên quan

Đọc tiếp